So | |
---|---|
Tình trạng bảo tồn
| |
Thiếu dữ liệu (IUCN 2.3) | |
Phân loại khoa học | |
Vực: | Eukaryota |
Giới: | Animalia |
Ngành: | Arthropoda |
Phân ngành: | Chelicerata |
Bộ: | Xiphosura |
Họ: | Limulidae |
Chi: | Carcinoscorpius Pocock, 1902 |
Loài: | C. rotundicauda
|
Danh pháp hai phần | |
Carcinoscorpius rotundicauda (Latreille, 1802) | |
Các đồng nghĩa | |
|
Sò, sò biển hay sam nhỏ (tên khoa học Carcinoscorpius rotundicauda) là một loài trong họ Sam (Limulidae). Tên tiếng Anh của loài này là mangrove horseshoe crab, có nghĩa là cua móng ngựa vùng ngập mặn. Nó được tìm thấy trong khu vực ven biển thuộc Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Nó cũng là loài duy nhất còn sinh tồn của chi Carcinoscorpius.
Đặc điểm
Đặc điểm sinh học
Bốn loài trong họ Sam bao gồm: Limulus polyphemus, Tachypleus tridentatus, Tachypleus gigas và Carcinoscorpius rotundicauda có những đặc tính sinh học khá tương đồng: Thân có vỏ cứng hình móng ngựa, chia thành ba phần: giáp đầu ngực, giáp bụng và đuôi kiếm. Toàn bộ phần thân nằm ở phía bụng, có 6 đôi chi đầu ngực và 6 đôi chi giáp bụng. Mắt lớn ở trên lưng. Màu nâu xanh hoặc vàng đậm hoặc màu xám. Ở Việt Nam có hai loài:
- Con Sam có tên khoa học là Tachypleus tridentatus, Leach, 1819; còn được gọi là sam đuôi tam giác, phân bố trên thế giới ở biển Hồng Hải, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Ở Việt Nam: từ Quảng Ninh đến Ninh Thuận. Sam có đuôi hình tam giác, rìa cuối cùng của phần bụng ở mặt lưng có 3 gai cứng: một gai ở giữa và 2 gai ở hai bên. Con sam thường có kích thước từ 17 đến 34 cm, nặng 3,8 kg.
- Con so, tên khoa học là Carcinoscorpius rotundicauda, Latreille, 1825; còn được gọi là sam đuôi tròn hoặc sam lông, toàn thân màu xanh nâu đậm, đuôi không có gờ mặt lưng, thiết diện ngang của đuôi tròn hoặc hình trứng và rìa cuối cùng của phần bụng ở mặt lưng không có gai.
So có kích thước nhỏ hơn Sam (khoảng 20 - 25 cm, chưa tính đuôi), khối lượng nhỏ hơn 1 kg. Ở khu vực châu Á, so phân bố ở miền nam Philippines, Indonesia, Malaysia, Thái Lan và vịnh Bengal. Ở Việt Nam, so thường sống ở vùng sình lầy ven bờ vịnh Bắc Bộ, miền Trung và Nam Bộ.
Cả 4 loài Sam đều có đặc điểm sống dưới cát. Khi nước lên, chúng thường đi theo dòng nước triều vào bờ để tìm thức ăn. Chúng săn mồi bằng cách ủi đất. Thức ăn chủ yếu của chúng là động vật thân mềm, sâu bùn, tảo biển và mùn hữu cơ. Chúng lớn lên qua nhiều lần lột xác. Sam thường sống thành đôi, con trống nhỏ hơn sẽ bám vào lưng con cái. Để trưởng thành, Sam cần khoảng 10 năm. Còn so thường sống một mình.
Đặc điểm sinh sản
Bốn loài trong họ Sam có đặc điểm sinh sản tương tự nhau. Mùa sinh sản diễn ra từ tháng 3 đến tháng 10 hàng năm. Trong mùa sinh sản, con đực và con cái của chúng giao phối: con đực bám vào lưng con cái bằng 2 gai đặc biệt trên giáp vỏ của chúng. Sau khi trưởng thành vào khoảng 3 năm tuổi và đã lột xác nhiều lần, Sam sẵn sàng đẻ trứng trên những bãi cát. Mỗi lần đẻ, số lượng trứng có thể từ 1.700 đến 24.150 trứng, trung bình khoảng 20.742 trứng. Trứng được đặt sâu dưới cát khoảng 20 mét, có đường kính từ 2 đến 3 mm. Trứng nở sau 6 - 8 ngày trong môi trường cát.
Độc tính
Tetrodotoxins
- Độc tố tetrodotoxins C11H17O8N3: là chất độc thần kinh, rất độc, có thể gây tử vong cao. Chất này cũng được phân lập từ một số loài vi khuẩn như: epiphytic bacterium, vibrio species, pseudomonas species (yasumoto 1987), tồn tại trong da và nội tạng của so, kỳ nhông, bạch tuộc vòng xanh, cóc, cá nóc.
- Độc tố tetrodotoxins không phải là một protein, tan trong nước, không bị phân hủy bởi nhiệt độ cao. Khi nấu chín, phơi khô, sấy, độc tố vẫn tồn tại (có thể bị phân hủy trong môi trường kiềm hoặc acid mạnh). Tetrodotoxins có độ bền rất cao: chỉ sau 8 giờ trong dung dịch HCl (axit clohidric) 0,2 đến 0,3%, độc tố mới bị phân hủy; đun sôi (100 °C) trong 6 giờ mới giảm được một nửa độc tính; để phá hủy hoàn toàn độc tính, cần đun sôi ở 200 °C trong 10 phút.
- Tetrodotoxin được hấp thu nhanh qua đường ruột và dạ dày trong vòng 5-15 phút. Đỉnh cao của tetrodotoxin trong máu xảy ra sau 20 phút và sau đó được thải qua nước tiểu trong khoảng 30 phút đến 3-4 giờ.
Độc tính
So là loài cá cực độc vì trong cơ thể có chứa tetrodotoxin rất nguy hiểm. Độc tố tập trung chủ yếu trong buồng trứng của con so. Trong mùa sinh sản, mức độ sản sinh tetrodotoxin là rất lớn. Tetrodotoxin từ buồng trứng có thể lan sang các bộ phận khác của so. Khi tiêu thụ, tetrodotoxin hấp thu vào cơ thể một cách nhanh chóng và sau 30 phút đến 2 giờ sẽ có cảm giác tê môi và đầu lưỡi, đau bụng, vã mồ hôi, giãn đồng tử, tăng tiết đàm nhớt, nôn ói, tụt huyết áp, co giật, liệt hô hấp, hôn mê và có thể tử vong nếu bệnh nhân không được đưa đến bệnh viện kịp thời.
Hiện nay, thế giới chưa có thuốc giải độc đặc hiệu cho ngộ độc tetrodotoxin. Điều đáng nói là tetrodotoxin không bị tiêu diệt bởi nhiệt độ cao, do đó khi nấu chín, thịt So vẫn còn độc hại. Hiện nay, không có thuốc giải độc tetrodotoxin. Một số loài hải sản khác hầu hết chứa độc tố nguy hiểm, nhưng thịt rất ngon và có giá trị dinh dưỡng cao như cá nóc, bạch tuộc đốm xanh.
Phân biệt với loài sam
Đuôi của con sam có diện tích hình tam giác, ba cạnh kéo dài đến cuối đuôi, ở đỉnh tam giác có những gai nhọn giống như lưỡi cưa. Ngược lại, đuôi của con so có diện tích hình tròn hoặc hình trứng, không có gai. Sam thường đi theo cặp, con đực thường bám lưng con cái. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng vào mùa sinh sản, không chỉ có sam đi theo cặp mà cả so cũng có thể đi cặp với nhau.
So thường có kích thước và trọng lượng nhỏ hơn so với sam. Tuy nhiên, không thể dựa chỉ vào kích thước và trọng lượng để phân biệt sam và so một cách chính xác. Sam cần khoảng 10 năm để trưởng thành, do đó dễ nhầm lẫn con so non với con sam.
Triệu chứng ngộ độc
Nguyên nhân gây tử vong trong trường hợp ngộ độc so là do độc tố tetrodotoxin có trong thịt của con so, dẫn đến liệt cơ hô hấp và hạ huyết áp. Lượng tetrodotoxin trong 100 gram thịt và trứng so đủ để gây tử vong cho một người. Đặc điểm của ngộ độc so là thời gian ủ bệnh rất ngắn, diễn biến nhanh, mức độ nặng phụ thuộc vào lượng thức ăn mà nạn nhân tiêu thụ. Nếu thời gian ủ bệnh kéo dài, tình trạng ngộ độc sẽ nhẹ đi, hiếm khi gây tử vong.
Biểu hiện quan trọng nhất là từ 20 phút đến 3 giờ sau khi ăn, môi và lưỡi có cảm giác tê. Tiếp theo là các ngón tay tê cứng, có thể kèm đau đầu, đau bụng và đôi khi nôn mửa. Sau đó là tê liệt vận động, di chuyển khó khăn, tê liệt thị giác, nói chậm, khó thở, huyết áp giảm nhanh và rơi vào tình trạng mất ý thức và ngừng thở sau đó.