1. Bài soạn số 1
3. Bài soạn số 2
3. Bài soạn số 3
Soạn bài Bài ca hồn nhiên trang 39 Sách Giáo Khoa Ngữ Văn 11 Tập 1
Soạn bài Bài ca hồn nhiên, Ngắn 1
Câu 1:
“Hồn nhiên” được đề cập 4 lần ở cuối các câu 4, 8, 12 và cuối bài. Mỗi lần xuất hiện, từ này mang ý nghĩa khác nhau.
- Từ “hồn nhiên” thứ nhất chỉ sự tinh tế, tài năng quân sự của Nguyễn Công Trứ.
Câu 2:
Mặc dù biết công việc làm quan mang theo sự hạn chế và ràng buộc theo quy tắc, nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn chấp nhận bởi ông xem đó như điều kiện, phương tiện để thực hiện hoài bão và lý tưởng xã hội cho đất nước và nhân dân. Đồng thời, đây là cơ hội để ông thể hiện tài năng và cá tính cá nhân.
Câu 3:
- Trong bài thơ, Nguyễn Công Trứ chân thật kể về bản thân, tự thuật, đánh giá mình. Ông hiểu rõ về tài năng của mình cũng như cách ông có thể đóng góp cho đất nước và nhân dân. Nguyễn Công Trứ tự hào về cuộc sống tích cực và tích cực tham gia vào xã hội. Ông cũng tự hào vì dám sống độc lập, bỏ qua sự ràng buộc của truyền thống và tôn giáo.
- Ông khẳng định tính cách độc đáo, không giống ai khác. Đồng thời, ông tôn vinh một lối sống tự do, vượt qua những hạn chế của những mô phỏng cổ điển.
Câu 4:
Thể loại hát nói có các quy tắc về số câu, cách chia khổ, nhưng tác giả vẫn có thể đột phá theo ý muốn để tạo ra một tác phẩm tự do về số câu, số từ, cách gieo vần, nhịp điệu...
Luyện tập
- Ngôn ngữ của “Bài ca hồn nhiên” rất mở rộ, tự do, kiêu ngạo, thể hiện rõ đặc tính cá nhân của tác giả, đồng thời chứa đựng nhiều câu chuyện kể. Điều này giúp việc truyền đạt nội dung và phong cách của Nguyễn Công Trứ trở nên dễ dàng hơn.
- Ngôn ngữ trong bài “Bài ca phong cảnh Hương Sơn” nhẹ nhàng, đầy miêu tả về cảnh đẹp thiên nhiên và đồng thời mang đậm tinh thần Phật giáo. Điều này thể hiện lòng say mê với phong cảnh tự nhiên của đất nước và triết lý Phật giáo của tác giả.
Xem trước và xem lại những bài học gần đây để nắm vững kiến thức Ngữ Văn lớp 11 hơn
- Chuẩn bị cho bài Bài ca ngắn trên bãi cát
- Tiến hành Luyện tập thao tác lập luận phân tích
- Soạn bài Lẽ ghét thương
Soạn bài Bài ca ngất ngưởng, Tóm tắt 2
I. Về tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
- Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858), tự là Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn, sinh ra trong một gia đình Nho học, ở làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- Nguyễn Công Trứ là người học hành cần cù và say mê. Đến năm 1819, ông thi đỗ Giải Nguyên và được bổ nhiệm làm quan. Cuộc đời của ông chứng minh sự tài năng và nhuyệt huyết trải dài trên nhiều lĩnh vực xã hội, từ văn hóa, kinh tế đến quân sự. Tuy nhiên, con đường làm quan của Nguyễn Công Trứ không phải lúc nào cũng thuận lợi. Ông trải qua những thăng trầm và thay đổi chức vụ không đều đặn.
2. Bài ca ngất ngưởng, một tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Công Trứ, được sáng tác năm 1848 theo thể ca trù. Tác phẩm phô trương, khoe sự ngang tàng và phá cách trong lối sống của ông, một lối sống ít phù hợp với khuôn khổ của đạo Nho.
II. Hướng dẫn soạn bài
Câu 1 (trang 39 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):
Trong bài thơ, ngoài nhan đề, tác giả sử dụng từ ngất ngưởng bốn lần.
- Từ ngất ngưởng thứ nhất chỉ sự thao lược, tài năng, và phong cách ngạo nghễ khi làm quan của Nguyễn Công Trứ.
- Từ ngất ngưởng thứ hai chỉ sự ngang tàng của tác giả ngay khi làm dân thường.
- Từ ngất ngưởng thứ ba khẳng định cái chơi ngông hơn người của Nguyễn Công Trứ, ông dẫn các cô gái trẻ lên chùa, đi hát ả đào, ... và tự đánh giá cao các việc làm ấy.
- Từ ngất ngưởng cuối cùng cho thấy tác giả hơn người vì dám coi thường công danh phú quý, coi thường cả dư luận khen chê, thỏa thích vui chơi bất cứ thú gì, không vướng bận đến sự ràng buộc thân phận.
Câu 2 (trang 39 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):
Nguyễn Công Trứ biết làm quan là gò bó, mất tự do nhưng ông vẫn ra làm quan bởi đó là phương tiện để ông thể hiện tài năng và hoài bão của mình. Do đó, ngất ngưởng thực chất là một phong cách sống tôn trọng sự trung thực, tôn trọng cá tính, cách sống tự do, phóng khoáng của chính mình.
Câu 3 (trang 39 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):
Trong bài hát nói này, Nguyễn Công Trứ tự thuật về bản thân mình với giọng điệu khẳng định và đầy cá tính. Con người ông hiện lên qua hình ảnh ngất ngưởng: từng xây dựng sự nghiệp lớn, tâm hồn tự do phóng khoáng, và có sự phá cách về quan niệm sống, vượt qua khuôn mẫu của lễ giáo phong kiến.
Câu 4 (trang 39 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1):
So với các bài thơ Đường luật gò bó, hát nói linh hoạt hơn rất nhiều. Hát nói giới hạn về số câu và cách chia khổ, nhưng tác giả vẫn có thể phá cách để tạo ra một tác phẩm tự do về số câu, cách gieo vần, và nhịp điệu... Sự phóng khoáng của thể thơ rất thích hợp với việc truyền tải những quan niệm nhân sinh mới mẻ của tầng lớp nhà nho tài tử, với sự bỏ qua sự gò bó của lễ giáo phong kiến.
III. Luyện tập
(trang 39 sgk Ngữ Văn 11 Tập 1): Theo anh (chị) ...
Sự khác biệt về từ ngữ giữa Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ và Bài phong cảnh Hương Sơn của Chu Mạnh Trinh:
- Ngôn ngữ của Bài ca ngất ngưởng phù hợp với nội dung và phong cách của Nguyễn Công Trứ: phóng khoáng, tự do, có chút ngạo nghễ...
- Ngôn ngữ của Bài ca phong cảnh Hương Sơn nhẹ nhàng, thẫm đạm ý vị thiền và niềm say mê phong cảnh thiên nhiên đất nước.
Soạn bài Tình khúc hồn nhiên, Ngắn 3
I. HƯỚNG DẪN SOẠN BÀI
Câu 1: Trong Tình khúc hồn nhiên, từ “hồn nhiên” xuất hiện 4 lần:
- Khi khám phá
- Khi rời xa thành thị về làng nghỉ ngơi
- Trong những ngày sống nhẹ nhàng tự tại ở quê hương
--> “Hồn nhiên” khẳng định bản thân trong câu thơ cuối.
⇒ Cái tôi “tinh tế” của Nguyễn Tinh Thần
Câu 2: Vì sao Nguyễn Tinh Thần biết rằng việc khám phá là gò bó, mất tự do nhưng vẫn tiếp tục khám phá
Bởi vì chỉ khi khám phá ông mới có thể thể hiện tài năng của bản thân và đặc biệt là để “trọn nghĩa tâm hồn”
Câu 3:
- Thực tế ông là người có tài (phát triển nhanh chóng, tài tư duy lôgic,...) đó là điều đáng tự hào. Nhưng tự hào nhất là ở chỗ ông thực hiện khám phá không vì danh lợi, không nhằm lập công đức để lại dấu ấn cho đời mà khám phá để giúp mọi người, giúp cộng đồng để thỏa chí ước mơ làm con người.
- Ông là người có phẩm chất, “trọn nghĩa tâm hồn” khác biệt so với những người khác đua nhau vì quyền lực, có danh vọng không thực tế vào thời điểm đó.
- Ông còn cho mình là “hồn nhiên” vì ông có một quan điểm sống khác biệt với đám đông: ông không quan tâm đến việc được mọi người biết đến, khen chê xấu tốt.
⇒ “Hồn nhiên” là cách Nguyễn Tinh Thần thể hiện bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống.
Câu 4:
- So với dạng thơ Luật đường gò bó với số câu và luật lệ chặt chẽ
- Hát nói là thể loại kết hợp giữa âm nhạc và thơ, có tính chất tự do phóng khoáng, phù hợp với việc thể hiện cá nhân con người.
Ngoài việc ôn tập kiến thức đã học, hãy sẵn sàng cho bài học sắp tới với phần Soạn bài Khám phá những thể loại văn học: Thơ, truyện để nắm vững thông tin Ngữ Văn lớp 11 của bạn.
Trong giáo trình Ngữ Văn lớp 11, phân tích nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao là một phần quan trọng mà bạn cần chú ý và chuẩn bị kỹ lưỡng cho các buổi học sắp tới.