Tác phẩm Cô Gió mất tên sẽ được giới thiệu đến các bạn học sinh trong chương trình học môn Ngữ Văn lớp 6, trong sách Chân trời sáng tạo, tập 1.
Mytour muốn cung cấp bài Soạn văn 6: Cô Gió mất tên. Hãy cùng theo dõi nội dung chi tiết chúng tôi giới thiệu ngay sau đây.
Soạn bài Cô gió mất tên - Mẫu 1
Tác giả và tác phẩm
1. Tác giả
- Xuân Quỳnh sinh năm 1942 và qua đời năm 1988, tên đầy đủ của bà là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh.
- Sinh ra ở làng An Khê, gần thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội).
- Bà được coi là một trong những nhà thơ nữ nổi tiếng nhất của Việt Nam, được gọi là nữ hoàng thơ tình yêu của đất nước.
- Thơ của Xuân Quỳnh thường nói về những tình cảm đời thường, chân thành và trong sáng của gia đình và cuộc sống hàng ngày, thể hiện những cảm xúc và mong muốn của một trái tim phụ nữ chân thành, sâu lắng và giàu tình cảm.
- Xuân Quỳnh đã nhận được Giải thưởng Nhà nước về Văn học và Nghệ thuật vào năm 2011.
- Một số tác phẩm đáng chú ý của bà:
- Các tập thơ: Chồi biếc (1963), Hoa dọc chiến hào (1968), Lời ru trên mặt đất (1978), Chờ trăng (1981), Tự hát (1984). Trong đó có một số bài thơ nổi tiếng: Thuyền và biển, Sóng, Tiếng gà trưa, Thơ tình cuối mùa thu…
- Một số tác phẩm viết cho thiếu nhi: Mùa xuân trên cánh đồng (truyện thiếu nhi, 1981), Bầu trời trong quả trứng (thơ văn thiếu nhi, 1982)...
2. Tác phẩm
- Nguồn gốc: Cô Gió mất tên được in trong tập “Những câu chuyện hay viết cho thiếu nhi” (NXB Kim Đồng, 2014)
- Tóm tắt: Có một người được gọi là Cô Gió, đi khắp nơi giúp đỡ mọi người. Mọi người đều yêu quý cô. Cô giúp thuyền trên sông chạy nhanh hơn, giúp cây cỏ và hoa đậu trái, mang mây đến làm mưa trên cánh đồng khô cằn. Khi bố mẹ Đào đi công tác và chỉ còn Đào và bà ở nhà, bà lại ốm. Trong ngày nóng nực, Đào quạt cho bà. Thấy vậy, Cô Gió đến giúp đỡ hai bà cháu. Sau đó, cô giúp chú Ong nhỏ về nhà. Trên đường trở về, cô vô tình lạc vào căn nhà, cô nói chuyện với chị Hũ. Cuộc trò chuyện khiến cô nhận ra mình không có hình dáng, màu sắc nên không ai biết tên mình. Cô buồn nhưng rồi vẫn tiếp tục bay đi để tìm thấy cái tên của mình ở một nơi nào đó. Rồi cô nhận ra rằng nhờ có mình, thuyền được nhổ neo, hoa đậu trái và tiếng mẹ gọi con về ăn cơm xa vang đến cánh đồng. Cô Gió cảm thấy hạnh phúc khi được giúp đỡ mọi người.
Đọc - hiểu văn bản
1. Giới thiệu về cô Gió
- Biệt danh: Gió.
- Dáng vẻ, màu sắc: không có.
- Nhiệm vụ: Lang thang khắp nơi, thỉnh thoảng nhanh, thỉnh thoảng chậm tùy theo thời tiết và giúp đỡ mọi người (giúp thuyền chạy nhanh hơn, đưa mây về làm mưa trên những vùng đất khô cằn).
=> Mọi người thường yêu quý cô.
b. Câu chuyện về việc cô Gió thường giúp đỡ mọi người
* Cô Gió hỗ trợ bạn Đào:
- Tình hình: Cha mẹ của Đào đều vắng nhà đi công tác, chỉ còn hai bà cháu ở nhà. Trời nóng oi bức, và bà già ốm yếu, Đào phải ngồi quạt cho bà.
- Cô Gió giúp Đào:
- Từ xa, Cô Gió nghe thấy và biết mọi việc. Cô từ chối niềm vui để vội đến giúp Đào: “Chờ tí nhé! Tôi phải vội đến giúp bạn Đào ngay bên kia một chút”.
- Nhanh chóng đến giúp: “Đến cửa sổ nhỏ của nhà Đào, cô dừng lại một lúc rồi từ từ thổi hơi mát vào giường của bà. Vì đối với người ốm mà làm mạnh quá thì nguy hiểm”.
- Hỗ trợ nhiệt tình: “Cô Gió lưu luyến ở nhà Đào cho đến khi bà Đào khỏi bệnh”.
- Luôn sẵn sàng khi Đào cần: “Khi bạn cần, chỉ cần gọi tôi, tôi sẽ đến giúp bạn ngay lập tức…”.
* Cuộc trò chuyện với các bạn ngô, lau, sậy trên bãi:
- Tình huống: sau khi giúp bé Đào, đang đi vừa hát vừa đi thì gặp phải.
- Những người bạn ngô: “Ai cũng biết về cô. Mỗi khi cô đến, cả họ hàng nhà ngô chúng tôi đều hân hoan phấn khởi”
- Các bác lau sậy: “Chỉ cần cô đến, chúng tôi mới ca hát, nếu không có cô thì chúng tôi sẽ buồn lắm. Nhưng luôn khó giữ cô lại lâu. Mọi nơi đều cần đến cô nên cô phải đi ngay”.
- Cô Gió: chưa kịp trò chuyện vì phải đi giúp chú Ong nhỏ về nhà.
* Câu chuyện đưa Ong vàng về nhà:
- Tình huống: gặp trên đường, chú ong lạc đàn, cứ bay vơ vẩn mà khóc suốt.
- Khi đang trên đường, cô đi qua một ngôi nhà và bị kẹt lại.
- Sau khi cô thoát ra, chú ong đã không còn ở đó nữa.
c. Câu chuyện về cô Gió mất tên
- Tình huống: trên đường đưa chú ong vàng về, cô Gió đi qua một ngôi nhà.
- Cô vào nhà nhưng không ai biết đến:
- Mọi người quây quần bên bữa cơm không hề hay biết cô đã đi vào.
- Cô cảm thấy một chút buồn bã, bí mật nghĩ: “Nếu mình có hình dạng cụ thể như một cái ấm, một cái lọ hoa hoặc như ngọn lửa trên bếp thì liệu có thú vị không nhỉ”.
- Cô ngạc nhiên với những điều mới lạ: tivi, những sợi dây rối bời và nút bấm lằng nhằng; tiếng đàn, tiếng hát vẫn vang vọng tự nhiên mà không cần đến cô truyền đi.
- Cô Gió trèo vào một chiếc hũ tối om, mùi hôi thối bốc lên rất mạnh mẽ và cô không thể chịu nổi phải kêu gào: “Trời ơi! Tối quá, tối quá! Hãy để tôi ra đi”.
- Chị Hũ không hề biết về sự xuất hiện và tên của cô Gió: “Tôi chưa từng nghe thấy tên ấy”, “Vậy công việc của cô là gì mà cô lại đến đây?”
- Chị Hũ khuyên cô quay trở lại những nơi mà cô có thể hữu ích để tìm lại tên của mình.
- Cảm xúc của cô Gió sau khi thoát ra khỏi Hũ: lòng buồn rối ren, nghĩ suy “Có lẽ chị Hũ nói đúng, mình đã bỏ quên tên thật rồi!”.
=> Cảm thấy bất lực và khóc nhưng nước mắt không hình thức nào, không một ai để an ủi cô.
d. Cô Gió tìm lại tên cho mình
- Tình huống: sau khi mất tên, cô Gió hoảng loạn bay đi; cô mang trong lòng hi vọng tìm thấy tên của mình ở một nơi nào đó.
- Cô đến biển, tìm lại công việc của mình:
- Thổi khói bay trên mái nhà máy.
- Tạo ra hơi mát từ dòng suối cho cây cỏ.
- Phát tán mùi thơm của hoa khắp đồng cỏ.
- Đưa tiếng gọi vọng lại từ đồng ruộng đến tai em bé.
- Thổi bay hai dải mũ thủy thủ. Thổi lá cờ tung bay. Gió giúp thuyền lướt xa khơi.
- Quay tít chong chóng nhỏ trên tay em bé.
=> Cô Gió đã tìm thấy lại tên của mình.
Soạn bài Cô Gió mất tên - Mẫu 2
Câu 1. Nhấn mạnh những đặc điểm của truyện đồng thoại trong văn bản Cô gió mất tên.
Đặc điểm của thể loại truyện đồng thoại:
- Nhân vật là các loài vật, đồ vật đã có tính cách: cô Gió, hoa tầm xuân, chị Hũ, bạn ngô, bác lau sậy, chú Ong vàng nói chuyện, hành động như con người.
- Thể hiện hoạt động của các vật thể qua các chi tiết: cô Gió bay đi vội vã, dừng lại một lát rồi thổi hơi mát vào giường bà… Đồng thời cũng phản ánh tính cách của con người (sự tốt bụng, quan tâm và giúp đỡ mọi người xung quanh).
Câu 2. Thông điệp tác giả muốn truyền đạt cho người đọc là gì?
Mặc dù cô Gió không có hình dạng rõ ràng, không ai nhìn thấy được, nhưng mọi người vẫn biết đến và yêu mến cô vì tính tốt bụng, nhiệt tình của cô. Qua đó, truyện truyền đạt thông điệp về sự quan tâm, giúp đỡ trong cộng đồng.
Soạn bài Cô Gió mất tên - Mẫu 3
I. Khởi đầu
Giới thiệu một số thông tin về tác giả Xuân Quỳnh và tác phẩm Cô Gió mất tên.
II. Nội dung chính
1. Giới thiệu về cô Gió
- Tên gọi: Gió.
- Không có hình dạng, màu sắc nào đặc biệt.
- Công việc của cô là lang thang khắp nơi, đôi khi nhanh chóng, đôi khi chậm lại tùy thuộc vào thời tiết và hỗ trợ mọi người (giúp thuyền chạy nhanh hơn, mang mây đến tạo mưa trên những vùng đất khô cằn).
=> Mọi người đều rất yêu mến cô.
2. Cô Gió thường hỗ trợ mọi người
a. Cô Gió giúp bạn Đào:
- Tình huống: Cả bố và mẹ đều vắng nhà đi công tác, chỉ còn hai bà cháu ở nhà. Trời nắng chói chang, oi bức. Bà già ốm, Đào phải ngồi quạt cho bà.
- Cô Gió giúp đỡ Đào:
- Từ xa, cô Gió nghe thấy và biết mọi sự. Cô từ chối niềm vui để mau chóng đến giúp bạn Đào: “Chút nữa nhé! Tôi còn phải vội vã tới giúp bạn Đào một chút”.
- Vội vàng đến giúp: “Khi đến cửa sổ nhỏ của nhà Đào, cô dừng lại một lát rồi từ từ thổi hơi mát vào giường bà. Vì với người bệnh mà thổi quá mạnh có thể gây hại”.
- Giúp đỡ rất nhiệt tình: “Cô Gió dành thời gian ở nhà Đào cho đến khi bà Đào hồi phục”.
- Luôn sẵn lòng khi Đào cần: “Bất cứ khi nào bạn cần, hãy gọi tôi, tôi sẽ đến giúp bạn ngay…”.
b. Trò chuyện với bạn ngô, lau, sậy trên bãi:
- Tình huống: Sau khi giúp bé Đào xong, khi vẫn đang hát thì cô gặp chuyện.
- Bạn ngô: “Ai không biết đến cô chứ! Mỗi khi cô đến, toàn bộ gia đình nhà ngô chúng tôi đều phấn khích”
- Bác lau sậy: “Khi cô đến, chúng tôi mới thích hát, không có cô, chúng tôi cảm thấy buồn lắm. Nhưng chưa bao giờ giữ được cô lâu đâu. Mọi nơi đều cần cô, vậy nên cô cứ đi mãi”.
- Cô Gió: chưa kịp trò chuyện vì phải giúp đỡ chú Ong nhỏ về nhà.
c. Chuyện đưa chú Ong vàng về nhà:
- Tình huống: Gặp chú ong lạc đàn trên đường, cứ bay đi mênh mang và khóc mãi.
- Trên đường đi, cô vô tình vào một ngôi nhà và bị mắc kẹt.
- Cho đến khi cô thoát ra, chú Ong đã không còn ở đó nữa.
3. Cô Gió lạc mất tên
- Tình huống: Trên đường đưa chú Ong vàng về, cô Gió lạc vào một ngôi nhà.
- Cô vào nhà nhưng không ai biết đến:
- Mọi người quây quần bên bàn ăn không hay biết cô đi vào.
- Cô cảm thấy hơi buồn, lòng nghĩ thầm: “Nếu mình có hình dáng cụ thể như chiếc ấm, cái lọ hoa hoặc như ngọn lửa trên bếp thì liệu có thú vị không nhỉ”.
- Cô nhận ra những điều mới lạ: Đài truyền hình, nhiều dây dợ và núi bấm lằng nhằng. Tiếng đàn, giọng hát vẫn tự nhiên vang lên mà không cần cô phải tạo ra.
- Cô Gió lao vào một cái hũ tối mịt, mùi hôi bốc lên nồng nặc và không thể chịu đựng được, phải kêu lên: “Ôi! Tối quá, tối quá! Làm ơn, cho tôi ra ngoài”.
- Chị Hũ không biết gì về sự xuất hiện và tên của cô Gió: “Tôi chưa từng nghe về tên đó bao giờ”, “Công việc của cô là gì mà cô lại mò mẫm vào đây thế?”
- Chị Hũ khuyên cô quay trở lại những nơi có ích cho mình để tìm lại tên.
- Tâm trạng cô Gió sau khi thoát khỏi Hũ: cảm thấy buồn phiền, suy tư rằng “Có lẽ chị Hũ nói đúng, mình đã quên mất tên rồi!”.
=> Cảm thấy bất lực, cô khóc òa nhưng nước mắt không có hình dạng màu sắc, không ai biết để an ủi cô.
4. Cô Gió lạc mất tên
- Tình huống: Sau khi lạc mất tên, cô Gió hoảng sợ bay đi, hy vọng tìm thấy tên của mình ở một nơi nào đó.
- Cô đến mặt biển, tìm lại công việc của mình:
- Thổi khói bay trên tầng ống khói nhà máy.
- Tỏa hơi mát từ dòng suối ra bờ cây.
- Đưa mùi thơm của hoa lan tỏa khắp đồng cỏ.
- Đưa tiếng gọi xa đến tai em bé trên đồng ruộng.
- Thổi bay phấp phới hai dải mũ thủy thủ. Thổi lá cờ bay tung bay. Gió giúp thuyền ra khơi.
- Thổi quay chong chóng nhỏ sặc sỡ trên tay em bé.
=> Cô Gió đã tìm lại tên của mình.
III. Kết thúc
Xác nhận lại giá trị nội dung của truyện Cô Gió mất tên.