Trước khi đọc 1
Câu 1 (trang 82, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Nhà nước phong kiến xưa tổ chức các kỳ thi cho sĩ tử tham gia với mục đích gì?
Phương pháp giải:
Chú trọng vào kiến thức lịch sử và văn học.
Lời giải chi tiết:
Nhà nước phong kiến xưa tổ chức các kỳ thi cho sĩ tử tham gia nhằm tìm ra người tài giỏi để phục vụ triều đình và góp phần cho đất nước.
Trước khi đọc 2
Câu 2 (trang 82, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Sau cuộc thi (thể thao, nghệ thuật, giáo dục,…) thường sẽ có một buổi lễ xướng danh và trao giải. Mục đích của lễ xướng danh là gì?
Phương pháp giải:
Dựa vào kiến thức lịch sử và văn học để trả lời.
Lời giải chi tiết:
Mục đích của lễ xướng danh là tôn vinh, khen ngợi những người thi đỗ được đề cử trên bảng vàng.
Sau khi đọc 1
Câu 1 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Bố cục bài thơ bao gồm bao nhiêu phần? Đó là những phần nào?
Phương pháp giải:
Đọc văn bản để xác định bố cục.
Lời giải chi tiết:
Bố cục bài thơ gồm 4 phần. Đó là đề - thực - luận - kết.
- Đề (2 câu đầu): Giới thiệu chung về kỳ thi Hương được tổ chức năm 1897
- Thực (2 câu tiếp): Hình ảnh các sĩ tử khi tham gia thi
- Luận (2 câu tiếp): Hình ảnh những người nước ngoài “phủ bóng” lên khung cảnh của kỳ thi
- Kết (2 câu cuối): Sự nhắc nhở về thực trạng bi hài của kỳ thi nói riêng và của đất nước nói chung trong bối cảnh thực dân Pháp đô hộ
Sau khi đọc 2
Câu 2 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Hai câu thơ đề cho biết điều gì về chế độ thi cử ở nước ta cuối thế kỉ XIX?
Đọc nội dung hai câu thơ đề để trả lời.
Lời giải chi tiết:
Về chế độ thi cử ở nước ta cuối thế kỉ XIX, hai câu thơ đề đã cho ta thấy tác giả đang phê phán chế độ thi cử của nhà nước thực dân phong kiến lúc bấy giờ. Sự hổ lốn, vô trách nhiệm, làm mất hết vẻ trang nghiêm của kì thi quốc gia khi để sĩ tử Hà Nội xuống Nam Định “thi lẫn” với nhau: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”.
Sau khi đọc 3
Câu 3 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Biện pháp tu từ nào đã được sử dụng trong cách diễn đạt “Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ” và “Ậm ọe quan trường miệng thét loa”? Nêu rõ tác dụng của biện pháp tu từ đó trong việc tái hiện hình ảnh các sĩ tử và quan viên người Việt.
Phương pháp giải:
Dựa vào kiến thức về biện pháp tu từ và văn cảnh để trả lời.
Lời giải chi tiết:
Biện pháp tu từ đảo ngữ được dùng trong hai câu thực. Từ “lôi thôi” nhấn mạnh là hình ảnh của sĩ tử bị chìm trong sự nhếch nhác. “Ậm oẹ” nghĩa là ra bộ nạt nộ, hăm doạ.
→ Việc sử dụng biện pháp đảo ngữ (đã nhấn mạnh được không khí nhếch nhác trong ngày thi) giúp nhấn mạnh hình ảnh lôi thôi, nhếch nhác của các sĩ tử để gây sự chú ý cho người đọc; đồng thời thể hiện được những thái độ trào phúng, khinh ghét của tác giả dành cho quan trường.
Sau khi đọc 4
Câu 4 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Phân tích tác dụng của phép đối được tác giả sử dụng trong hai câu thực.
Phương pháp giải:
Xác định phép đối và phân tích tác dụng.
Lời giải chi tiết:
Cách đảo trật tự cú pháp: “Lôi thôi sĩ tử”, “ậm oẹ quan trường” kết hợp với các từ giàu hình ảnh: lôi thôi, đeo lọ cùng với những từ chỉ âm thanh: ậm oẹ, thét loa làm cho quang cảnh thi trở nên nhốn nháo, ô hợp, mất đi vẻ trang nghiêm của một kì thi do quốc gia tổ chức. Hơn thế, sĩ tử thì lôi thôi lếch thếch mất hết vẻ nho nhã, thư sinh. Quan trường không còn quyền uy, mực thước, trang trọng như trước mà như nhân vật tuồng hề “ậm oẹ, thét loa”. Cảnh trường thi phản ánh sự suy vong của một nền học vấn, sự lỗi thời của đạo Nho.
Phép đối: “lôi thôi sĩ tử” >< “ậm ọe quan trường” → cho thấy sự láo nháo, lộn xộn, ô hợp của trường thi dù đây là một kì thi Hương quan trọng.
Sau khi đọc 5
Câu 5 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Tiếng cười trào phúng được thể hiện như thế nào qua việc đặc tả, nhấn mạnh hai hình ảnh mang tính chất “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm?
Phương pháp giải:
Đọc kỹ các câu thơ có hai hình ảnh mang tính chất “ngoại lai” là quan sứ và mụ đầm để chỉ ra tiếng cười trào phúng.
Lời giải chi tiết:
Sự có mặt của quan sứ và mụ đầm đáng lẽ phải làm cho quang cảnh trường thi trang nghiêm hơn. Song trái lại, sự hiện diện của chính quyền thực dân lúc này càng tăng thêm sự chua chát. Quyết định số phận của của các sĩ tử là một kẻ “ngoại lai” không biết gì về Nho học. Nơi cửa Khổng sân Trình là nơi mặc sức, tự nhiên lê váy của mụ đầm, lố lăng của quan sứ. “Váy lê quét đất” đối với “Lọng cắm rợp trời” (còn làm nhục quốc thể) chao ôi thật chua chát.
Sau khi đọc 6
Câu 6 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Nhắc đến “nhân tài đất Bắc”, tác giả muốn ám chỉ những đối tượng nào? Em cảm nhận được thái độ gì của tác giả qua lời nhắn nhủ ấy?
Phương pháp giải:
Đọc kỹ tác phẩm để trả lời.
Lời giải chi tiết:
- Nhắc đến “nhân tài đất Bắc”, tác giả muốn ám chỉ những đối tượng: quan trường/ sĩ tử/ những người tài giỏi khác trong thời đại ấy/ mọi người Việt Nam có lương tri, biết trăn trở trước tình cảm của dân tộc.
- Thái độ: Vừa chế giễu (giễu tài năng của “nhân tài đất Bắc” rởm, giễu những người đã quay lưng lại với tình cảnh của dân tộc) vừa là lời tâm sự, nhắn nhủ xót xa (xót xa cho vận mệnh nước nhà) của tác giả.
Sau khi đọc 7
Câu 7 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Nhân vật nào trong bài thơ để lại ấn tượng cho tôi nhiều nhất? Tại sao?
Phương pháp giải:
Thảo luận về nhân vật ấn tượng và lý giải nguyên nhân.
Lời giải chi tiết:
Nhân vật tôi ấn tượng nhiều nhất là những người sĩ tử. Bởi tác giả đã mô tả trước mắt người đọc hình ảnh người thí sinh lôi thôi với những chai lọ trên vai, thật là lộn xộn trong khi chúng thực ra nên là những học sinh nho nhã, thanh lịch.
Sau khi đọc 8
Câu 8 (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Cảm xúc chủ đạo của tác giả trong bài thơ này là gì?
Phương pháp giải:
Tổ chức lại nội dung để xác định cảm xúc chủ đạo.
Lời giải chi tiết:
Cảm xúc chủ đạo là tiếng cười trào phúng luôn hòa cùng tiếng khóc đau thương - một cảm xúc đặc biệt thường gặp trong các tác phẩm của ông.
Viết
Câu hỏi (trang 83, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Viết đoạn văn (khoảng 7 – 9 câu) phân tích một chi tiết có tính chất trào phúng mà tôi ấn tượng nhất trong bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu.
Phương pháp giải:
Chọn ra chi tiết trào phúng mà tôi ấn tượng và viết đoạn văn phân tích.
Lời giải chi tiết:
Hai câu luận tôi đặc biệt trong bức tranh “Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” qua hai bức biếm hoạ về ông Tây và bà mụ đầm. Tài liệu cũ cho biết, năm ấy Toàn quyền Pôn Đu-me và vợ chồng tên Công sứ Nam Định Lơ Noóc-măng đã đến dự. Các ông cử tân khoa, các ông tú mền, tú kép... phải cúi rạp mình xuống mà lạy ông Tây, lạy bà mụ đầm “váy lê quét đất”, “trên ghế... ngoi đít vịt”. Cái nhục của hàng vạn sĩ tử Bắc Hà không thể nào kể hết:
Lọng cắm rợp trời, quan sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.
Tây thực dân đang đè đầu cưỡi cổ dân ta. Hình ảnh “Lọng cắm rợp trời” gợi tả cảnh đón tiếp dành cho “quan sứ”, lũ ăn cướp đất nước ta, một nghi lễ cực kỳ long trọng. Đó là nỗi đau mất nước. Từ xưa tới năm ấy (1897) chốn trường thi là nơi tôn nghiêm, lễ giáo phong kiến vốn trọng nam khinh nữ, đàn bà đâu được bén mảng đến nơi kén chọn nhân tài. Thế mà bây giờ, không chỉ “mụ đầm ra” mụ đầm đến với “váy lê quét đất” mà còn bày ra giữa thanh thiên bạch nhật một nghịch cảnh vô cùng nhục nhã.