Đề Bài
Hãy trình bày báo cáo về kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường Luật qua một số bài thơ Trung đại đã học.
Phương Pháp Giải - Xem Chi Tiết
- Xem lại dàn ý và báo cáo bài đã hoàn thành ở phần viết, sửa lại báo cáo thành văn bản phù hợp để trình bày trong buổi thuyết trình văn bản, bài trình bày được chuẩn bị trên giấy hoặc trên trang chiếu của máy tính với hình ảnh, sơ đồ, tập đọc diễn cảm các bài thơ sử dụng làm minh chứng.
- Thảo luận với các bạn trong nhóm, trình bày nội dung trước lớp.
Lời Giải Chi Tiết
Chương Trình
1. Bắt Đầu
- Chào mừng và tự giới thiệu.
- Giới thiệu vấn đề chính của bài nói: báo cáo kết quả nghiên cứu về đặc điểm hình thức thơ Đường Luật qua một số bài thơ Trung đại đã học.
2. Nội Dung
- Giới Thiệu Một Số Bài Thơ Đường Luật Đã Học Hoặc Đã Biết.
- Phân Tích Cấu Trúc Chung Của Một Bài Thơ Đường Luật Qua Một Số Bài Thơ Đã Tìm Hiểu.
- Giới Thiệu Về Quy Luật Vần, Đối, Niêm, Luật Trong Thơ Đường Luật.
3. Tổng Kết
- Tóm Tắt Lại Các Vấn Đề Đã Đề Cập Ở Trên.
- Chào Mừng và Cảm Ơn Quý Vị Nghe.
Xin Chào Thầy/Cô và Các Bạn. Tôi Là Nguyễn Văn A. Tôi Rất Hứng Thú Với Thơ Đường Luật Nên Đã Nghiên Cứu Sâu Về Nó. Dưới Đây, Tôi Xin Được Trình Bày Kết Quả Nghiên Cứu Của Mình.
PGS - TS Lã Nhâm Thìn Từng Nhận Xét: “Thơ Nôm Đường Luật Là Một Trong Những Thể Loại Độc Đáo Và Đạt Được Nhiều Thành Tựu Lớn Nhất Của Văn Học Việt Nam. Có Nhiều Tác Giả, Cũng Có Rất Nhiều Những Đỉnh Cao Giá Trị Văn Học Thuộc Về Thơ Nôm Đường Luật”. Quả Thật, Thơ Nôm Đường Luật Là Một Thể Loại “Có Một Không Hai”, Nó Dường Như Luôn Có Ma Lực Hấp Dẫn Khiến Không Ít Những Người Tâm Huyết Với Nó Đi Sâu Nghiên Cứu, Tìm Hiểu Nhằm Tìm Ra Ngọn Nguồn Của Sức Hấp Dẫn Ấy. Và Chúng Tôi Cũng Không Phải Là Một Ngoại Lệ. Thơ Nôm Đường Luật Là Một “Thể Loại Có Nguồn Gốc Ngoại Lai”, Chịu Ảnh Hưởng Sâu Sắc Của Thể Loại Thơ Đường Luật Trung Quốc. Song, Ảnh Hưởng Mà Không Bị “Hoà Loãng”, “Hòa Tan”. Trên Bước Đường Dân Chủ Hóa, Dân Tộc Hoá Nền Văn Học Việt Nam, Cha Ông Ta Một Mặt Tiếp Thu Những Thành Tựu Văn Học Của Thơ Đường, Mặt Khác Không Ngừng Việt Hoá, Sáng Tạo Nhằm Biến Nó Thành Một Di Sản Văn Học Mang Đậm Dấu Ấn Phong Cách Con Người Trung Đại Việt Nam. Trong Quá Trình Học Tập, Chúng Tôi Nhận Thấy Có Rất Nhiều Nhà Khoa Học Nghiên Cứu Về Quá Trình Tiếp Thu, Việt Hoá Và Sáng Tạo Thể Thơ Đường Luật Trong Thơ Nôm Của Dân Tộc, Song Xuất Phát Từ Hệ Thống Cơ Bản Của Đặc Trưng Thể Loại Thơ Đường Luật Thì Chưa Có Công Trình Nghiên Cứu Nào Đề Cập Một Cách Sâu Sắc. Với Tư Cách Người Nghiên Cứu Khoa Học Về Kết Quả Nghiên Cứu Về Đặc Điểm Hình Thức Thơ Đường Luật Qua Một Số Bài Thơ Trung Đại Đã Học Như: Qua Đèo Ngang, Bạn Đến Chơi Nhà, Bánh Trôi Nước,... Một Mặt, Để Làm Quen Với Các Thao Tác Nghiên Cứu Văn Học, Mặt Khác Đây Cũng Là Cơ Hội Để Tiếp Cận Với Một Hiện Tượng Văn Học Vốn Rất Hấp Dẫn Và Phong Phú Của Nền Văn Học Trung Đại Việt Nam.
Thơ Đường Luật, hay còn gọi là Thơ Luật Đường, là một dạng thơ tuân theo các luật được thiết lập từ thời nhà Đường của Trung Quốc. Nó phát triển mạnh mẽ không chỉ tại quê hương mà còn nổi tiếng ở nhiều quốc gia lân cận, trở thành biểu tượng văn học của nhà Đường cũng như của thi ca Trung Hoa. Thơ Đường Luật có một hệ thống quy tắc phức tạp, bao gồm Niêm, Luật, Đối, Vần và Bố cục. Có nhiều dạng thơ Đường Luật như: Thất ngôn bát cú, Thất ngôn tứ tuyệt, Ngũ ngôn bát cú, Ngũ ngôn tứ tuyệt, và còn nhiều dạng khác.
Luật thơ Đường dựa trên thanh bằng và thanh trắc, sử dụng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu để xây dựng luật. Thanh bằng bao gồm các chữ không dấu hoặc có dấu huyền, còn thanh trắc bao gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng.
Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là 'luật bằng'; nếu chữ thứ 2 của câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là 'luật trắc'. Trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải cùng thanh điệu, và chữ thứ 4 phải khác hai chữ kia. Nếu không tuân theo quy định này thì câu thơ được gọi là 'thất luật'.
Ví dụ: xét câu 'Bước tới đèo Ngang bóng xế tà' trong bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, có các chữ 'tới' (thứ 2) và 'xế' (thứ 6) cùng thanh trắc, còn chữ 'Ngang' có thanh bằng, vì vậy đây là bài Thất Ngôn Bát Cú Luật Trắc.
Luật bằng trắc trong thể Thất ngôn tứ tuyệt và Thất ngôn bát cú có thể được tóm gọn như sau: nếu chỉ vần bằng bằng chữ 'B', vần trắc bằng chữ 'T', và các vần không tuân theo luật được để trống, thì luật trong các chữ thứ 2-4-6-7 sẽ được viết như sau:
1. Quy Tắc Bằng Trắc
Quy tắc thơ Đường dựa trên thanh trắc và thanh bằng, sử dụng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu để xây dựng quy tắc. Thanh bằng bao gồm các chữ không dấu hoặc có dấu huyền; thanh trắc bao gồm tất cả các dấu còn lại: sắc, hỏi, ngã, nặng.
Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường luật là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải 'đối' nhau và hai câu 5, 6 cũng 'đối' nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) bao gồm cả sự tương đương trong cách dùng các từ ngữ. Đối chữ: danh từ đối danh từ, động từ đối động từ. Đối cảnh: trên đối dưới, cảnh động đối cảnh tĩnh... Nếu một bài thơ Đường luật mà các câu 3, 4 không đối nhau, các câu 5, 6 không đối nhau thì bị gọi 'thất đối'.
Ví dụ: hai câu 3, 4 trong bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lảo đảo bên dòng sóng mấy nhà,
'Lảo đảo' so với 'lác đác' (hình thái và số lượng - thực ra hai câu này chưa hoàn toàn đối lập), 'dưới núi' so với 'bên sông' (vị trí địa hình), nhưng khi kết hợp hình ảnh của hai câu 'lảo đảo dưới núi' và 'lác đác bên sông', vì một câu miêu tả cảnh động, một câu miêu tả cảnh tĩnh, nên sự đối lập có thể chấp nhận được. Một điểm cần lưu ý là từ láy âm 'lảo đảo' chỉ tình trạng của con người trong câu trên, trong khi 'lác đác' chỉ số lượng trong câu dưới. Hai phần cuối: 'tiều vài chú' so với 'rợ mấy nhà' (đối lập về số lượng và tĩnh/động). Sự đối lập trong hai phần cuối có thể xem là hoàn chỉnh. Xin xem thêm về thơ đối hoặc Câu đối Việt Nam để hiểu thêm về quy tắc đối trong thơ.
Hai bốn sáu phân biệt (Câu 2,4,6 phải đối ý).
2. Niêm
Các câu trong một bài thơ Đường luật giống nhau về quy tắc được gọi là 'niêm nhau' (niêm = giữ chặt, ở đây hiểu là giữ nguyên quy tắc). Hai câu thơ niêm nhau khi chữ thứ hai trong cả hai câu đều tuân theo một quy tắc, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, tạo ra niêm bằng với bằng, niêm trắc với trắc. Ở những câu cần phải niêm theo quy tắc, nếu tác giả sơ suất và không niêm, thì bài thơ đó được gọi là 'thất niêm'.
Quy tắc niêm trong một bài thơ Đường luật chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:
Câu 1 niêm với câu 8
Câu 2 niêm với câu 3
Câu 4 niêm với câu 5
Câu 6 niêm với câu 7
Còn với Nguyên tắc niêm trong thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt: Câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm với câu 1. Ví dụ với luật vần bằng:
- B - T - B B
- T - B - T B
- T - B - T T
- B - T - B B
- B - T - B T
- T - B - T B
- T - B - T T
- B - T - B B
Ví dụ: Trong bài thơ Qua đèo Ngang, hai câu thứ 2 và thứ 3:
Cỏ cây xen đá lá xen hoa
Lác đác dưới núi tiều vài chú
3. Vần
Vần là những từ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường luật chuẩn, vần được sử dụng ở cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là 'vần với nhau'. Nếu một bài thơ Đường luật mà từ cuối của một trong các câu này không giống nhau về vần thì được gọi là 'thất vần'.
Những từ có vần giống nhau hoàn toàn được gọi là 'vần chính', những từ có vần gần giống nhau được gọi là 'vần thông'. Hầu hết thơ Đường luật sử dụng vần thanh bằng, nhưng cũng có các trường hợp ngoại lệ.
Ví dụ: Hai câu 1, 2 trong bài Qua đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
Đi qua đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây xen đá, lá xen hoa
Hai từ 'tà' và 'hoa' được coi là vần với nhau, nhưng ở đây là 'vần thông' vì chỉ phát âm gần giống nhau.
4. Bố cục
Bố cục một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật theo truyền thống thường được chia thành 4 phần: Đề, Thực (hoặc Trạng), Luận, Kết. 'Đề' bao gồm 2 câu đầu, trong đó câu đầu tiên được gọi là câu phá đề, câu thứ hai được gọi là câu thừa đề, chuyển tiếp ý để đi vào phần sau. 'Thực' bao gồm 2 câu tiếp theo, giải thích rõ ý đầu bài. 'Luận' bao gồm 2 câu tiếp theo nữa, bình luận 2 câu thực. 'Kết' là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài, trong đó câu thứ 7 là câu 'thúc' (hay 'chuyển') và câu cuối là 'hợp'. Có người cho rằng hai câu đề giới thiệu về thời gian, không gian, sự vật, sự việc. Hai câu thực trình bày, mô tả sự vật, sự việc. Hai câu luận diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng. Hai câu kết khái quát toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao
Đối ý: Một nguyên tắc cố định trong một bài thơ được sáng tác theo thể loại đường luật chính là ý nghĩa của câu thứ 3, thứ 4 phải đối nhau và cả 2 câu thứ 5, thứ 6 cũng phải đối nhau. Đối chính là sự tương phản về nghĩa của cả từ đơn, từ láy hoặc từ ghép và nó bao gồm cả sự tương đương trong cách mà tác giả sử dụng từ ngữ. Đối chữ là động từ đối động từ, danh từ với danh từ. Đối cảnh là cảnh đội đối với cảnh tĩnh, trên đối với dưới… Nếu trong một bài thơ đường luật mà các câu 3, 4 không đối nhau hoặc những câu 5, 6 không đối nhau thì được gọi “thất đối”.
Thơ thất ngôn bát cú có luật lệ gò bó khó nhất nhưng chính điều đó lại được người xưa ưa thích nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, xướng họa... Và trong tất cả các kỳ thi xưa đều bắt thí sinh phải làm.
Tại quê hương của Đường thi cũng là nơi mà phong trào tập cổ, sáng tác thơ Đường luật rầm rộ nhất, lý luận thi pháp thơ Đường luật Trung Quốc không có khái niệm Đề, Thực, Luận, Kết mà thay bằng khái niệm đầu liên, hàm liên, cảnh liên, vĩ liên, nói ngắn gọn bằng tổ hợp bốn từ Khởi (khai), Thừa, Chuyển, Hợp. Tuy nhiên cách phân chia này cũng không khác gì cách phân Đề, Thực, Luận, Kết về mặt ý nghĩa. Tuy nhiên, đa phần tài liệu Việt Nam vẫn đi theo cách chia Đề, Thực, Luận, Kết. Vì vậy, khi học hoặc tiếp cận Đường luật.
Một quan niệm khác áp dụng cấu trúc 2-4-2 cho bài thơ thất ngôn bát cú. Theo đó quan niệm này đứng ở góc độ không gian-thời gian nghệ thuật để khảo sát toàn bài dựa theo logic hai câu đầu và hai câu cuối bài thơ Đường luật thường yếu tố thời gian chiếm vị trí chủ đạo, còn bốn câu giữa trật tự không gian là chủ đạo và tác giả dường như dừng lại để quan sát sự vật.
Cũng cần nhấn mạnh quan điểm 'Cảnh-Tình' của Kim Thánh Thán khi phân chia bài thơ thất ngôn bát cú thành hai phần đều nhau, trong đó bốn câu đầu của bài tập trung vào cảnh và bốn câu cuối tập trung vào tình.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu có xu hướng không tìm kiếm quy luật chung về bố cục để áp dụng trong hàng loạt bài thơ mà thay vào đó, họ tuân theo quan điểm nghiên cứu từ thời Minh mạt Thanh sơ ở Trung Hoa, quan điểm này tập trung và tuân thủ cách phân chia bố cục của từng bài thơ theo luồng cảm xúc của thi nhân biểu hiện trong bài. Một ví dụ là bài thơ nổi tiếng 'Qua đèo Ngang' của Bà Huyện Thanh Quan có thể được phân tách theo bố cục 1/7, hoặc bài 'Bạn đến chơi nhà' của Nguyễn Khuyến có thể phân chia bố cục 7/1 hoặc 1/6/1.
Khi viết thơ Đường Luật, chúng ta phải tuân theo nguyên tắc niêm luật. Nếu không tuân theo quy tắc đúng đắn, thì dù nội dung bài thơ có hay đến đâu cũng không được công nhận.
Trên đây là toàn bộ kiến thức mình biết, được học và tìm hiểu về thơ Đường luật. Xin cảm ơn thầy/cô và tất cả các bạn đã chú ý lắng nghe. Mình rất mong nhận được những cảm nhận, ý kiến góp ý của cả lớp về bài thuyết trình này.
Thực hành nói và nghe:
- Chuẩn bị sẵn giấy và bút.
- Trước khi nghe, nên tìm hiểu về vấn đề để có thể so sánh và đối chiếu.
- Hãy tập trung lắng nghe và tôn trọng người đang nói.
- Hãy ghi chép ngay những câu hỏi, thắc mắc và ý kiến góp ý của mình về bài nói.
Giáo viên sẽ kiểm tra và điều chỉnh.