1. Hướng dẫn soạn bài Sông núi nước Nam (Phần 1).
2. Hướng dẫn soạn bài Sông núi nước Nam (Phần 2).
3. Dàn ý bài Sông núi nước Nam
4. Ý nghĩa và tác dụng của bài thơ Nam quốc sơn hà
5. Cảm nhận về bài thơ Nam quốc sơn hà
6. Phân tích bài thơ Nam Quốc Sơn Hà
=> Bài số 1
=> Bài số 2
=> Bài số 3
Soạn bài Nam quốc sơn hà trang 62 sách giáo trình Ngữ Văn 7 tập 1
HƯỚNG DẪN CHUẨN BỊ SỐNG NÚI NƯỚC NAM (NGẮN 1)
Bố cục:
- Phần 1 (Hai câu đầu): Khẳng định chủ quyền lãnh thổ với tư cách của một dân tộc luôn coi trọng chính nghĩa.
- Phần 2 (Hai câu cuối): Tuyên bố quyết tâm chống lại những kẻ xâm lược vi phạm chính nghĩa.
Hướng dẫn chuẩn bị:
Câu 1 (trang 64 Ngữ Văn 7 Tập 1):
- Bản gốc bài thơ viết bằng chữ Hán theo thể thất ngôn tứ tuyệt.
- Đường luật (bốn câu, mỗi câu bảy chữ vần chữ cuối câu 1, 2, 3).
Câu 2 (trang 64 Ngữ Văn 7 Tập 1):
- Bản Tuyên ngôn Độc lập là tuyên bố về chủ quyền của một quốc gia, khẳng định không chấp nhận bất kỳ sự xâm phạm nào.
- Nội dung tuyên ngôn độc lập trong bài thơ bao gồm hai ý:
Đánh giá và ôn lại những bài học gần đây để nắm vững kiến thức Ngữ Văn lớp 7
- Chuẩn bị bài Phò giá về kinh
- Lên kịch bản Từ Hán Việt
- Sáng tạo văn bản Luyện tập
SOẠN BÀI SÔNG NÚI NƯỚC NAM (NGẮN 2)
Câu 1 (trang 64 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
Bài thơ Sông núi nước Nam thuộc thể thơ thất ngôn tứ tuyệt: 4 câu, mỗi câu 7 chữ; vần cuối câu.
Câu 2 (trang 64 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
- Tuyên ngôn độc lập là lời tuyên bố về chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia.
- Nội dung Tuyên ngôn độc lập trong bài thơ:
+ Nước Nam thuộc chủ quyền người Nam, có vị vua riêng, nước Nam độc lập đã là phận định sẵn.
+ Khi ngoại bang xâm chiếm nhất định sẽ gánh lấy thất bại.
Câu 3 (trang 64 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
- Bố cục thể hiện nội dung biểu ý:
+ Hai câu đầu: nước Nam là của người Nam, điều đó đã được định ở sách trời.
+ Kẻ thù không được phép xâm phạm nếu không sẽ chuốc lấy bại vong.
- Nhận xét: bố cục logic và chặt chẽ, nêu chủ quyền trước, sau biểu ý quyết tâm bảo vệ chủ quyền.
Câu 4 (trang 64 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
Ngoài biểu ý, Sông núi nước Nam còn biểu cảm. Điều đó được thể hiện trực tiếp và tinh tế qua lời khẳng định, ngôn từ đanh thép, mãnh liệt, quyết tâm.
Câu 5 (trang 64 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
Giọng điệu bài thơ qua ngôn ngữ: dõng dạc, đanh thép, mang đầy tinh thần hào hùng dân tộc.
THỰC HÀNH
Câu 1 (trang 65 sgk Ngữ Văn 7 Tập 1):
“Nam đế cư” khẳng định sự bình đẳng giữa hai nước, nước có vua là nước độc lập. Người xưa coi trời là đấng tối cao và vua (thiên tử - con trời) mới có quyền định đoạt mọi việc ở trần gian. Nước Nam có “Nam đế cư” – có Thiên tử chứ không phải là “vua nhỏ” dưới quyền cai trị của Hoàng đế Trung Hoa.
Phân loại ý bài Sông núi nước Nam
Yêu cầu: Hướng dẫn lập phân loại ý “Nhận định về bài Sông núi nước Nam” chi tiết và ngắn gọn nhất dành cho bạn.
Việt Nam ta nằm trên bán đảo Đông Dương, thuộc khu vực Đông Nam Á, giáp biển Đông, Lào và Campuchia. Việt Nam ta đã trải qua 4 nghìn năm lịch sử vô cùng gian khổ và khó khắn. Chúng ta đã đánh đổ giặc Tàu, giặc Mỹ và giặc Pháp. Chúng ta đã có một lịch sử vô cùng vẻ vang và đầy anh dũng. Nước ta từ ngàn đời xưa đã có tinh thần kháng chiến chống giặc và bao chiến tích lẫy lừng. Nước ta đã có một bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên được đánh dấu trong lịch sử là tác phẩm Nam Quốc Sơn Hà của Lí Thường Kiệt.
Tác phẩm Nam Quốc Sơn Hà của Lí Thường Kiệt được sáng tác vào năm 1076, trong một trận chiến đấu ác liệt chống quân Tống xâm lược. tác phẩm được xem như là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam ta. Tác phẩm đã khẳng định chủ quyền, vị trí và tầm thế của quốc gia ta.tác phẩm này chúng ta được học trong chương trình lớp7 một cách sâu sắc và vô cùng kĩ lưỡng.
Chủ đề “Nhận định về bài Sông Núi nước Nam” được nhắc đến rất nhiều trong chương trình ngữ văn của bậc trung học cơ sở Một trong những chuẩn bị tốt nhất là lập phân loại ý cho bài văn với đề “Nhận định về bài Sông núi nước Nam”. Để các em có một chuẩn bị tốt thì Bài viết dưới đây Vforum sẽ Hướng dẫn lập phân loại ý đề bài “Nhận định về bài Sông núi Nước Nam” chi tiết và ngắn gọn nhất dành cho bạn.
PHÂN LOẠI Ý:
I. Giới thiệu chung về tác phẩm Sông núi nước Nam
Ví dụ:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Đọc những câu thơ trên ta đã thấy được tinh thần yêu nước, thể hiện qua sự khẳng định chủ quyền của dân tộc. dân tộc ta được người xưa khẳng định và ghi nhận qua tác phẩm Nam Quốc Sơn Hà của Lí Thường Kiệt vào cuối năm 1076.
II. Phân loại ý theo từng câu thơ của bài Sông núi nước Nam
1. Nhận định về câu thứ nhất: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”
- Tác giả khẳng định người Nam phải ở nước Nam
- Vua Nam thì phải ở nước Nam
- Đã phân định rõ ràng về chủ quyền và lãnh thổ
2. Nhận định về câu thứ hai: Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
- Chủ quyền được thiết lập một cách rõ ràng theo quy định của trời
- Tác giả vinh danh những chân lí sống, những quy tắc lẻ thường tình
- Sự xâm lược của các quốc gia khác là một hành động đầy mê tín
3. Cảm nghĩ về câu thứ ba: Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
- Tác giả tỏ ra tức giận và có tư thế khinh bỉ đối với kẻ thù
- Tác giả bày tỏ ý kiến rằng tại sao đất nước chúng ta lại bị xâm lăng
- Thể hiện sự căm thù sâu sắc đối với kẻ thù
4. Câu cuối cùng: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư
- Tác giả cảnh báo rằng việc làm trái với quy định của trời sẽ chịu quả báo
- Kiên quyết khẳng định chủ quyền của mình một cách mạnh mẽ
III. Kết bài: chia sẻ cảm nghĩ của em về bài thơ Sông núi nước Nam
Ví dụ:
Đây là một bài thơ mang ý nghĩa sâu sắc, thể hiện tinh thần yêu nước và lòng căm thù giặc của tác giả. Bài thơ này được coi như một 'bản thánh' khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và nhân dân. Sự rõ ràng và mạnh mẽ của bài thơ đã làm cho lòng người hâm mộ nên niềm tự hào về lịch sử anh hùng của dân tộc.
Trên đây là Hướng dẫn lập dàn ý đề bài “Cảm nghĩ của em về bài thơ Sông núi nước Nam” chi tiết và ngắn gọn nhất dành cho bạn. Hy vọng thông qua dàn ý này bạn có đủ tư duy để viết một bài văn tốt.
Ý NGHĨA VÀ TÁC DỤNG CỦA BÀI THƠ NAM QUỐC SƠN HÀ
Bài thơ trên do Lý Thường Kiệt sáng tác trong bối cảnh thế giặc mạnh mẽ, nhưng ông cho rằng đó là ý thần trời ban. Mặc dù chỉ có bốn câu, bài thơ đã mạnh mẽ kích thích lòng yêu nước của người đọc, tạo động lực chiến đấu mạnh mẽ. Bài thơ đề cập rõ đến ý đồ phi nghĩa của kẻ thù và khẳng định chiến thắng tất yếu của quân ta. Nó như một tuyên ngôn mạnh mẽ về sự độc lập của đất nước. Bài thơ của Lý Thường Kiệt đã nhanh chóng lan truyền và giúp tinh thần chiến đấu của nhân dân trở nên mạnh mẽ. Nó đã đóng góp quan trọng vào chiến thắng lịch sử của nhà Lý.
chiến thắng trước đại địch Tống, hạ đối thủ với quân lực hùng mạnh bên bờ sông Như Nguyệt. Do đó, bài thơ trở thành Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của Việt Nam, xác định rõ chủ quyền của người Nam và khẳng định thắng lợi
trong cuộc chiến chống lại quân xâm lược, từ đó làm tăng sức mạnh tinh thần, quyết tâm bảo vệ đất nước của binh lính.
Phản ánh về bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt
Đề bài: Em hãy bày tỏ cảm nghĩ về bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt
Bắt đầu: Nhận định về bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt
Vào cuối năm 1076, hàng chục nghìn quân Tống xâm lược Việt Nam. Dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt, quân ta đã dừng chân tại phòng tuyến Sông Cầu. Trong đêm chiến, nghe tiếng ngâm bài thơ của Trương Hống và Trương Hát (tướng của Triệu Quang Phục) từ đền thờ Trương Hống, được cho là thần linh ủng hộ quân ta. Bài thơ Nam quốc sơn hà đã làm tăng động lực cho tinh thần chiến sĩ, giúp họ đánh bại quân Tống, buộc chúng phải rút lui một cách nhục nhã vào tháng 3 năm 1077.
Chính bài: Đánh giá về bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt
Bài thơ không có tiêu đề, thường xuất hiện rộng rãi trong dân gian. Tiêu đề 'Nam quốc ớn hà' được thêm vào sau đó. Truyền thuyết kể rằng thần linh đã nghe bài thơ này trong chiến thắng của Lê Hoàn chống lại Tống (981) và một lần nữa giúp Lý Thường Kiệt đánh bại quân Tống trên sông Như Nguyệt (1077).
Bài thơ Nam quốc sơn hà được ghi lại trong ít nhất 35 bản sách và 8 bản thần tích. Bản thư tịch đầu tiên chép bài thơ này xuất hiện trong sách Việt điện u linh tập, nhưng bản Nam quốc sơn hà trong Việt điện u linh tập không phải là bản phổ biến nhất. Bản được nhiều người biết đến nhất là bản ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư. Đây là bộ sử chính thức đầu tiên ghi chép bài thơ.
Phiên âm Hán-Việt:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Chống lại xâm phạm như chặn sóng
Đồng lòng chống kẻ thù, bảo vệ tổ quốc
Bản dịch thơ của Trần Trọng Kim:
Sông núi nước Nam, vua ở Nam,
Rõ ràng định mệnh theo sách trời.
Vì sao kẻ thù xâm phạm ngang
Sẽ bị đánh cho sạch bời bời.
Bản phiên dịch của Lê Thước và Nam Trân:
Núi sông ở miền Nam, vua ở Nam
Chắc chắn theo quy định của trời.
Đối với đám giặc dữ, tại sao họ lại phạm tới nơi này?
Chắc chắn chúng sẽ bị đánh tan vỡ.
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư, bản phiên dịch của Lê Thước và Nam Trân đã có nhiều sửa đổi.
Có thể nói bản phiên dịch của Trần Trọng Kim khá mạch lạc và truyền đạt được ý nghĩa của bài thơ. Bản phiên dịch này trước đây đã được đưa vào sách giáo trình nhưng sau đó bị loại bỏ và thay thế bằng bản dịch của Trần Trọng Kim.
Người ta thường nghĩ rằng bài thơ này là lời kêu gọi tinh thần của tướng sĩ để khích lệ họ. Cho dù hiểu rằng bài thơ mang tính chất kích động tinh thần chiến sĩ, thì mục tiêu vẫn là đối phương xâm lược. Hai câu thơ cuối cùng hiển nhiên thể hiện tư duy chính nghĩa của quân đội.
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Đánh giá:
Tinh thần của bài thơ là sự khẳng định chủ quyền đất nước và tư tưởng chính nghĩa của chúng ta. Bắt đầu bằng niềm tự hào về chủ quyền đất nước: “Sông núi nước Nam, vua Nam ở”. Điều này là hiển nhiên như chân lý đã được xác định từ trên trời cao. Tuy nhiên, sức mạnh đối đầu với sự bạo tàn của giặc xâm phạm lãnh thổ, không tuân theo ý trời, làm điều vô lý.
Xưng nước Nam là phủ nhận sự thực tế trong tâm trí của kẻ xâm lược, xem xét mình là một quốc gia (Nam Quốc), có quyền lợi bình đẳng với nước Bắc (Bắc Quốc). Xưng vua Nam (Nam đế) là từ chối sự ưu tiên của vua trong số họ, tự xưng là thiên tử (con trời), coi vua của những nước khác là tôi tớ, gọi là vương (Đinh Bộ Lĩnh tự gọi là Đinh Tiên hoàng đế, nhưng triều đình của Tống chỉ công nhận là Giao Chỉ quận vương, một vị vua ở một quận). Tự hào, kiêu hãnh, là chủ nhân tuyệt đối của đất nước và không phải là điều nói dối. Chiến dịch quân sự trực tiếp vào nơi chúng ta đã mấy tháng trước đó là một minh chứng. Nước Nam, vua Nam không chỉ là một khái niệm ý nghĩa mà là một sự khẳng định về quốc gia, về chủ quyền của dân tộc vô cùng quan trọng.
Ngày xưa, tin rằng mảnh đất dưới chân cầu vô số sao trên bầu trời. Bản thân sao đã phân bổ vùng, dưới thế giới này, mỗi vùng có một quốc gia, giống như sự phân chia trên trời. Điều này đã được thiên định, thần thánh và không thể xâm phạm.
Nước Nam, vương quốc của nhân dân, tự hào và lớn lao, nhưng vẫn chỉ là vấn đề của con người, không vượt ra khỏi giới hạn con người, là dưới đất, không đủ cao để khiến kẻ thù khiếp sợ, run rẩy. Phải dựa vào sức mạnh của trời: định mệnh rõ ràng trong sách trời. Tất cả binh sĩ và tướng giặc đều tin vào điều này. Bất kể họ nghe trực tiếp từ 'thần' trong đền hay qua loa truyền trên chiến trường, quân ta chắc chắn sẽ trở nên mạnh mẽ, kẻ thù sẽ trở nên hoảng sợ và sợ hãi.
Có thể không nên bỏ qua một chút sự tinh tế trong giảng dạy ở trường, nhưng điều này rất nghệ thuật: từ vựng và ngữ pháp đóng vai trò quan trọng trong sự khẳng định nói trên. Có lẽ câu thơ đã được sắp xếp thành các khối? Trong văn bản Hán, điều này rõ ràng hơn: “Nam quốc” gần như là một từ, “sơn hà” là một từ, “Nam đế” cũng gần như là một từ, “cư” là một từ. Dịch không rõ ràng hơn, nhưng cũng có thể xem xét từng phần: “sông núi” là một phần, nên nếu chúng ta dịch là bờ cõi, bờ cõi sẽ là một từ, “nước Nam” tạo nên một phần, “vua Nam” cũng vậy, “ở” cũng như vậy. Mỗi phần là một khối tạo nên sự vững chắc của chân lí, chân lí như được đúc chế thành khối. 'Sông núi nước Nam' là một nhóm danh từ làm bổ nghĩa cho 'ở', đặt trước, còn 'vua Nam' ở sau là một cách nhấn mạnh ý nghĩa của câu trong nghệ thuật cú pháp, nhấn mạnh tính chất khẳng định của chân lí: nước Nam là của người Nam. Cấu trúc từ vựng ở câu thứ hai cũng sắp xếp các phần giúp làm cho chân lý trở nên mạnh mẽ và làm sâu sắc hơn cảm nhận về bài thơ Nam quốc sơn hà của chúng ta.
Tiếp theo là một câu hỏi: “Tại sao bọn giặc dám xâm phạm?” Hỏi trực tiếp kẻ thù. Chân lí là rõ ràng, đơn giản và thiêng liêng như thế, không thể nào dám xâm phạm. Hỏi nhưng có vẻ ngạc nhiên và khinh bỉ. Ngạc nhiên là Trung Quốc tự xem mình là thiên tử mà dám tự ý phản đối với ý trời, họ nhất định trở thành kẻ nghịch tử. Đó có phải là hành động ngu ngốc không?
Về bài thơ Nam quốc sơn hà, chúng ta đề cập thêm về nghệ thuật: tại sao lại đặt câu hỏi? Vì phần trước đã khẳng định. Việc khẳng định đã được thể hiện ở trên, và câu hỏi được đặt để làm tăng sức mạnh của sự khẳng định, tăng cường bằng cách đối lập với sự phủ định của con người và cả của trời. Việc khẳng định thông qua việc đặt câu hỏi là điều thường gặp, nhưng việc khẳng định thông qua nghi vấn phủ định mới là điều độc đáo. Điều này là do sự tinh tế của ngôn ngữ.
Tuy không cần phải trả lời trực tiếp, nhưng chúng ta chỉ đơn giản là thông báo về số phận của chúng: chờ xem đi! Chúng bay sẽ phải gánh chịu thất bại không nghĩa lý gì (Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư). Dịch không thể thể hiện hết tinh thần: Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Bị đánh tơi bời đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ đánh bại chúng. Bản gốc chỉ nói: tự chịu thất bại. Không phải là chúng ta đánh mà là chúng nó tự khiến cho chúng nó thất bại, và đó là thất bại hoàn toàn do hành động phi nghĩa. Sức mạnh chiến thắng của chúng ta đáng sợ, chúng không thể chống đỡ, như một hình phạt khủng khiếp đến từ trên trời, chúng ta không nói và không thể hiểu. Điều này có phải là sức mạnh nhân loại đạt đến sức mạnh thần linh, tương ứng với sách trời ở trên sao?
Cảm nhận về bài thơ Nam quốc sơn hà không phải là một sự khẳng định về mức độ sụp đổ của đối thủ và chiến thắng của chúng ta sao? Cần ghi nhớ thêm rằng trong các văn kiện giao thiệp với nhà Minh, mặc dù đã đánh bại họ, Lê Lợi vẫn kiên quyết đổ lỗi cho thất bại của quân tướng của họ là do tự hành động gây ra và tự khiến chúng thất bại. Đó có phải là chiến lược ngoại giao nhất quán của tổ tiên chúng ta trong quá khứ đối với kẻ xâm lược phương Bắc? Chỉ là sự nhượng bộ chăng? Đó là một sự khôn khéo, là chiến lược. Nếu bạn chú ý đến âm điệu, câu thơ dường như mang đặc điểm của một lời phê phán từ trên cao, bao gồm không chỉ sự thiêng liêng của số phận mà còn sự tất yếu và không thể lay chuyển của luật lệ: kẻ xâm lược chắc chắn phải thất bại. Một lần nữa, chân lí chủ quyền không chỉ được khẳng định thông qua chính nghĩa mà còn thông qua sức mạnh để bảo vệ chân lí đó.
Cảm nhận về bài thơ Nam quốc sơn hà đặt ra nhiều quan điểm rằng đây là một tuyên ngôn độc lập qua thơ. Trong lịch sử thơ Đường, đặc biệt là trong lịch sử thơ Đường Luật Nói, việc tạo ra một bài thơ có giá trị như vậy là điều hiếm gặp. Điều này không chỉ là kì lạ trong lịch sử thơ Đường mà còn trong lịch sử thơ nói chung. Và đây có thể là một cảm giác tình cảm. Nhưng điều đáng kỳ lạ hơn là, nói về chính trị mà đầy đủ tình cảm. Tất cả tâm trí, trí tuệ, kinh nghiệm, kinh ngạc, khinh bỉ, niềm tin, tự hào được đổ vào đây, tất cả đều đượm mình trong những từ ngữ, những điệu nhấn mạnh thông qua cấu trúc từ vựng, ngữ pháp, cú pháp, cấu trúc toàn bài, tất cả tập trung để thể hiện một sự khẳng định mạnh mẽ, một sự khẳng định chắc chắn, một sự khẳng định vô thời hạn, vượt lên trên mọi thách thức, vượt qua mọi thời gian, chính sự chân lí thiết thân đối với dân tộc ta: Không có gì quý bằng độc lập, tự do.
Đánh Giá Cuối Cùng: Cảm Nhận về Bài Thơ Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt
Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh và với mục đích cụ thể, nhưng không bị hạn chế bởi ngữ cảnh đó. Nó có sức sống mãnh liệt và vẫn giữ giá trị ngày nay. Tính nghệ thuật của nó không chỉ là trong lúc đó mà còn có sức hút vô tận. Nó mang đậm bản sắc văn hóa và không chỉ thuộc về một thời kỳ cụ thể. Ai mà không cảm nhận được điều đó, đặc biệt là người học văn Việt Nam?
Phân Tích Bài Thơ Nam Quốc Sơn Hà
Đánh Giá Bài Thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Bài Số 1
Bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt kết nối với chiến thắng tại Sông Cầu năm 1076, khi quân dân Đại Việt đánh bại quân giặc Tống xâm lược.
Dãy núi sông Nam Việt, vương quốc của vua Nam,
Thề với Thiên Trời chia lìa đất đai.
Giặc dữ tại sao dám xâm phạm đến đây?
Họ nhất định sẽ tan vỡ.
Hai câu đầu ám chỉ đến vị vua Nam độc lập tại đất nước Việt Nam, không chấp nhận làm tôi tớ của Thiên triều Bắc. Núi sông Nam Việt đầy quyền lực, có Thăng Long làm kinh thành chứng minh sự độc lập. Sách Trời đã ghi chép rõ ràng, xác lập lãnh thổ, biên giới riêng của đất nước. Văn bản thiêng liêng làm cho niềm tin vững chắc:
Chữ sách Trời (thiên thư) trong câu thứ hai mang đến không khí thiêng liêng, bản quyền của Đại Việt được công nhận. Vần thơ như là lời tuyên bố về chủ quyền vô song của Đại Việt:
Dãy núi sông Nam Việt, vua Nam đang cư trú,
Thề với thiên thư chia lìa xứ sở.
(Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư).
Từ nhận thức và lòng tin vững chắc về đất nước Nam, Lý Thường Kiệt nuối tiếc và lên án hành động xâm lược đầy tội ác, tham vọng bành trướng phi nghĩa của giặc Tống. Chúng âm mưu biến sông núi nước Nam thành địa bàn của Trung Quốc. Hành động xâm lược của chúng làm trái ý trời, xâm phạm dân tộc ta. Câu hỏi phê phán đầy căm giận vang lên như một lời buộc tội chất chứa sự phẫn nộ:
Làm sao lũ giặc dám xâm phạm đến nơi này?
(Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?).
Anh hùng dân tộc nhắc nhở lũ giặc phương Bắc một cách cảnh báo, khẳng định rằng chúng sẽ bị nhân dân ta đánh cho tơi bời, chúng sẽ gánh chịu thất bại nhục nhã:
Chúng nhất định sẽ bị khuất phục
(Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư)
Câu 3, 4 phát điệu bằng lối thơ hùng hồn, đặc sắc mô tả tinh thần đoàn kết quả cảm chiến đấu của nhân dân ta, quyết tâm đánh bại quân giặc Tống xâm lược, bảo vệ sông núi nước Nam. Chiến thắng trên sông cầu – (sông Như Nguyệt) năm 1076 là bằng chứng hùng mạnh cho tâm huyết thơ ca. Triệu Tiết, Quách Quỳ cùng hơn 20 vạn quân Tống bị quân dân Đại Việt quật ngã, xoay sạch khỏi đất nước.
Nam quốc sơn hà là một bài hát tình yêu nước chống lại sự xâm lăng. Thơ đã khẳng định chủ quyền của dân tộc, ca ngợi tinh thần chiến đấu mạnh mẽ bảo vệ đất nước Đại Việt. Với thông điệp đó, bài thơ Nam quốc sơn hà trở thành một tuyên ngôn lịch sử, như là Bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Bài số 2
Là tuyên ngôn độc lập quan trọng đầu tiên của dân tộc Việt Nam, bài thơ 'Nam quốc sơn hà' của chủ tướng Lí Thường Kiệt không chỉ khẳng định về lãnh thổ, chủ quyền và độc lập của Việt Nam mà còn thể hiện tinh thần mạnh mẽ, tự tôn của vị tướng kiệt xuất và nhân dân Việt Nam. Bài thơ là một tuyên bố đanh thép đối với những kẻ có ý định xâm lăng, xâm phạm lòng tự tôn của dân tộc anh hùng.
Trong cuộc chiến chống quân Tống, chủ tướng Lí Thường Kiệt đọc 'Nam quốc sơn hà' tại đền thờ hai thần Trương Hống và Trương Hát - hai vị thần của sông Như Nguyệt. Tiếng thơ vang lên trong đêm từ ngôi đền thiêng liêng khiến quân Tống hoảng sợ, lo lắng, làm suy giảm tinh thần chiến đấu của chúng. Điều này đã đóng góp vào chiến thắng lớn của quân Đại Việt.
Bài thơ mở đầu với khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền, lãnh thổ của Đại Việt, được định sẵn bởi 'sách trời'. Tác giả không chỉ làm tuyên bố mà còn cung cấp luận chứng vững chắc, chứng minh rằng độc lập và chủ quyền về lãnh thổ được định rõ bởi quy định của trời đất. Một sự thật không thể phủ nhận:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
“Rành rành định phận ở sách trời”
Sông núi nước Nam không chỉ là biểu tượng của chủ quyền và lãnh thổ của người Nam, mà còn là sự hiển hiện rõ ràng, không thể phủ nhận của định mệnh được ghi chép trong sách trời. Đây là lần đầu tiên trong thơ văn mà vấn đề về chủ quyền dân tộc được khẳng định mạnh mẽ như vậy, với vai trò quan trọng của 'vua Nam' là người đứng đầu, làm chủ dẫn dắt người dân. Tất cả đều do sự định phận của 'sách trời', là một sự thật không thể phủ nhận.
“Rành rành” là sự hiển hiện rõ ràng, không thể chối cãi. “Rành rành định phận ở sách trời” chính là sự khẳng định rằng chủ quyền và lãnh thổ của người Nam được sách trời ghi chép rõ ràng, không thể phủ nhận. Lí Thường Kiệt không chỉ làm tuyên bố mà còn đưa ra luận cứ, sự thuyết phục, và sự tỉnh táo khi thảo luận về chủ quyền dân tộc.
Từ sự khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền dân tộc, Lí Thường Kiệt cảnh báo kẻ thù về hậu quả bi thảm nếu họ cố tình xâm lăng, làm tổn thương lãnh thổ, gây đau khổ cho nhân dân Đại Việt:
“Tại sao bọn giặc dám xâm phạm
Chúng sẽ chịu trận và tan tác”
Hiển nhiên, “Sông núi nước Nam” thuộc chủ quyền của người Nam, nhưng lũ giặc coi thường quy định này, cố tình xâm phạm Đại Việt, là sự phạm trái với đạo lí và luật trời: “Tại sao bọn giặc dám xâm phạm” là hành động phi nghĩa, đáng bị chỉ trích và phạt đày đọa bằng những hình phạt thích đáng nhất. Trong bài thơ, tác giả Lí Thường Kiệt quả quyết tuyên bố hậu quả đau đớn, thảm khốc cho những kẻ coi thường đạo lí: “Chúng sẽ chịu trận và tan tác”. Với sức mạnh và lòng tự tôn của dân tộc Đại Việt, đối với lũ xâm lăng, chỉ có một kết cục là “chịu trận và tan tác”.
Bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” là bản tuyên ngôn hùng hồn, mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam, thể hiện lòng tự hào về chủ quyền thiêng liêng, sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong cuộc chiến chống xâm lăng.
Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Bài số 4
Hơn một ngàn năm chịu bóng Bắc, dân ta sống trong ước mơ khao khát tự do và hạnh phúc. Niềm hạnh phúc sẽ tăng lên bao nhiêu khi Đại Việt đạt được chủ quyền và độc lập? Đến khi bài thơ Nam Quốc sơn hà xuất hiện, lịch sử văn hóa Việt mới có tuyên ngôn chính thức về ý chí tự cường và chủ quyền dân tộc. Bài thơ này vang danh suốt hàng ngàn năm:
Nam quốc sơn hà là nơi vua Nam đặt ngôi,
Định mệnh xác định trong thiên thư.
Bởi những đòi hỏi lấp lánh xâm phạm,
Dân ta cùng đứng chung phòng thủ.
Người sáng tác bài thơ vĩ đại này không ai khác chính là tướng quân Lý Thường Kiệt, con hùng của Thăng Long. Tác phẩm ra đời trong thời kỳ đối đầu quyết liệt với quân đội Tống. Nó được sáng tác tại đền Trương Hống và Trương Hát, truyền đạt tinh thần chiến đấu, khích lệ quân lính đánh bại kẻ thù.
Bài thơ khai mạc uy nghiêm, đậm chất đanh thép:
Núi sông nước Nam, nơi vua Nam triều
Sách trời vắt chia rõ quyền chủ hữu.
Châm ngôn “Sông núi nước Nam” đồng nghĩa với việc vua Nam trở nên quyền lực ở đó. Từ 'cư' không chỉ là sự ở đó mà còn biểu tượng cho quyền lực chủ tướng. Nam đế không kém phần uy nghiêm so với Bắc đế. Vua đã xuất hiện, đất nước đã có chủ nhân, đồng nghĩa với độc lập và chủ quyền. Mỗi người dân đều mang trách nhiệm bảo vệ non sông. Chủ quyền của Nam nước không chỉ được Vị Thượng đế quyết định mà còn được sách trời xác nhận rõ ràng. Đây là chân lý không thể thay đổi, vững vàng như lòng tin về sự độc lập và chủ quyền của Đại Việt.
Hai câu thơ đầu tiên bật mí thêm lòng căm thù và quyết tâm, sẵn sàng cho lời tuyên ngôn tiếp theo:
Giặc dữ tại sao dám xâm phạm đây
Chắc chắn sẽ tan vỡ trước ý chí chúng ta
Hành động xâm lược tàn bạo, dã man của quân giặc là trái với đạo lý thiên địa. Chúng mày phạm phải sự tàn nhẫn, vì vậy chắc chắn sẽ đối mặt với thất bại. Nếu hai câu đầu là sự khẳng định về độc lập, chủ quyền, thì hai câu sau là niềm tin vào chiến thắng. Niềm tin ấy bắt nguồn từ tinh thần đoàn kết, truyền thống yêu nước và những anh hùng dũng cảm, luôn chiến đấu để bảo vệ quê hương.
Nam Quốc sơn hà, thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngắn gọn và sắc sảo, là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên ca ngợi lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, và đồng thời thể hiện ý chí, sức mạnh, tinh thần đoàn kết của người Việt Nam.
Ngoài ra, Trong dịp kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam, hãy chia sẻ những kỷ niệm đặc biệt với thầy cô yêu quý là một bài học quan trọng trong chương trình Ngữ Văn 7 mà chúng ta cần nhớ kỹ.
Ngoài việc ôn tập kiến thức đã học, hãy chuẩn bị cho bài học sắp tới với phần Soạn bài Thành ngữ, giúp củng cố vững chắc những kiến thức Ngữ Văn 7 của bạn.