Câu 1
Trả lời Câu hỏi 1 trang 138 SGK Văn 9 Chân trời sáng tạo
Xác định điển tích, điển cố và nêu tác dụng của việc sử dụng điển tích, điển cố trong các trường hợp sau
a. Trướng hùm mở giữa trung quân,
Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi.
Tiên nghiêm, trống chửa dứt hồi,
Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên.
(Nguyễn Du, truyện Kiều)
b.
Cho gươm mời đến Thúc Lang,
Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run.
Nàng rằng: “Nghĩa trọng nghìn non,
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ kkhông?
Sâm, Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
Gần trăm cuối, bạc nhìn cân.
Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là, […]”
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Phương pháp giải:
Đọc kĩ văn bản và xác định
Lời giải chi tiết:
- Điển tích, điển cố trong văn bản trên: trướng hùm, cửa viên
b.
- Điển tích, điển cố trong văn bản trên: dẽ run, Sâm, Thương.
Tác dụng: Cách diễn đạt trở nên hàm súc, uyên bác, giàu sức biểu hiện, gián tiếp bộ lộ, thái độ, cảm xúc của tác giả, tạo nhịp điệu cho câu thơ.
Câu 2
Trả lời Câu hỏi 2 trang 139 SGK Văn 9 Chân trời sáng tạo
Dùng từ điển để tra cứu nghĩa của các thành ngữ dưới đây và cho biết các thành ngữ này gắn với điển tích, điển cố nào.
a. Lá thắm chỉ hồng
b. Tái Ông thất mã
c. Ngưu lang Chức nữ
Phương pháp giải:
Đọc kĩ nhan đề kết hợp với quan sát bức tranh
Lời giải chi tiết:
a. Duyên số, tiền định trong tình yêu, hôn nhân, ví như Vu Hựu đời Đường kết duyên với nàng cung nữ mà trước đây chàng đã từng đề thơ của mình vào chiếc lá thắm đỏ thả trôi theo dòng nước gửi vào cung cấm; cũng ví như Vi Cố kết duyên với người con gái mà trước đây chàng đã thuê người giết và muốn chống lại duyên phận khi ông tơ cho biết chỉ hồng đã buộc chân hai người từ thuở ấy, lúc vợ chàng mới là cô gái lên ba: Dù khi lá thắm chỉ hồng/ Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha (Truyện Kiều)
b.
“Tái Ông thất mã” đã trở thành một thành ngữ chỉ sự họa, phúc xoay vần mà chúng ta khó có thể biết hay đoán trước được. Theo đó, trong cái họa thường có cái phúc và trong cái phúc lại có cái họa.
Xưa có ông lão tên là Tái Ông sinh sống ở vùng biên giới phía Bắc Trung Hoa. Nhà ông có một con ngựa quý và ông cũng rất giỏi việc nuôi ngựa. Ngày kia ngựa của Tái Ông xổng chuồng và chạy sang nước Hồ lân cận. Hàng xóm láng giềng hay tin đã đến an ủi nhưng Tái Ông lại cười và nói rằng: “Tôi tuy mất ngựa, nhưng đó có thể lại là điều tốt.”
Vài tháng sau, con ngựa mất tích của Tái Ông đột nhiên trở về cùng với một con tuấn mã. Thấy thế, hàng xóm đã đến chúc mừng. Tuy nhiên Tái Ông lại cau mày và nói: “Tôi được ngựa quý, sợ rằng đó chẳng phải là điềm lành.”
Con trai của ông rất thích cưỡi con ngựa quý này. Một hôm anh ta bị ngã ngựa gãy chân và trở thành tàn tật. Hàng xóm đều đến khuyên nhủ ông đừng quá nghĩ ngợi nhưng Tái Ông điềm nhiên nói: “Con trai tôi tuy gãy chân, nhưng đó chưa hẳn đã là điều không may.” Khi đó hàng xóm đều nghĩ rằng ông lão quá đau buồn nên mới bị quẫn trí.
Một năm sau, nước Hồ láng giềng đã đưa quân sang xâm lược. Tất cả các thanh niên trai tráng đều phải tòng quân và hầu hết đều bị tử trận. Con trai của Tái Ông vì bị tàn tật nên được ở nhà và đã thoát chết. Lúc này hàng xóm láng giềng mới thấy rằng những lời của Tái Ông quả thật là rất thâm thúy.
Người đời sau đã lập ra thành ngữ: “Tái Ông thất mã, an tri họa phúc”. Có nghĩa là: “ông lão mất ngựa, biết đâu là họa hay là phúc”.
c. Còn có tên gọi khác theo ngôn ngữ Việt Nam là Ông Ngâu Bà Ngâu, là một câu chuyện cổ tích rất nổi tiếng có xuất xứ từ Trung Quốc
Ngày xưa có chàng chăn trâu tên là Ngưu Lang. Trong một lần đi chăn trâu, chàng nhìn thấy 7 cô tiên xinh đẹp đang tắm trong hồ. Vì si mê sắc đẹp của cô em út tên là Chức Nữ, Ngưu Lang đã giấu quần áo của nàng đi khiến nàng không thể về trời.
Sau đó, Ngưu Lang đã bày tỏ tình cảm với Chức Nữ, được nàng đồng ý. Vậy là Chức Nữ ở lại trần gian sinh sống cùng Ngưu Lang, cùng chàng có 2 đứa con.
Đến khi Thiên Hậu (mẹ của Chức Nữ) biết được sự tình thì đã sai thiên binh thiên tướng xuống trần bắt Chức Nữ về trời. Quá thương vợ nên Ngưu Lang đã đưa 2 con lên trời tìm mẹ. Thấy vậy, Thiên Hậu liền lấy cây trâm vạch ra một đường thẳng, biến đường thẳng đó thành sông Ngân Hà để ngăn cách Ngưu Lang, Chức Nữ.
Chức Nữ ngày ngày ngồi bên bờ sông dệt vải, ủ rũ nhìn về phía chồng con. Còn Ngưu Lang ở bên kia bờ sông cũng một mực chờ vợ để cùng về trần gian. Ngưu Lang muốn tát cạn dòng sông để được gặp Chức Nữ nhưng tát mãi, đến khi bàn tay rướm máu và ngất lịm bên bờ sông.
Mọi người trên thiên đình thấy vậy, ai cũng thương cảm. Sau đó, Ngọc Hoàng và Thiên Hậu đã cho phép hai người mỗi năm gặp nhau một lần vào ngày mùng 7 tháng 7 âm lịch, tại cầu Ô Thước do đàn quạ trời dùng thân mình tạo nên. Khi gặp nhau, họ đã khóc. Nước mặt của họ khi rơi xuống trần gian thì tạo thành mưa ngâu.
Truyện cổ tích này có liên quan đến các sao Chức Nữ và sao Ngưu Lang, dải Ngân Hà và hiện tượng mưa ngâu diễn ra vào đầu tháng 7 âm lịch ở Việt Nam, ở Trung Quốc gọi là lễ Thất Tịch.
Câu 3
Trả lời Câu hỏi 3 trang 139 SGK Văn 9 Chân trời sáng tạo
Kể tên một tác phẩm văn học viết bằng chữ Nôm mà em biết. Chỉ ra ít nhất một từ ngữ hoặc hình ảnh mà em thích trong tác phẩm ấy và giải thích lí do lựa chọn từ ngữ/ hình ảnh như vậy
Phương pháp giải:
Lấy tên một tác phẩm văn học và chỉ ra một số hình ảnh đặc sắc.
Lời giải chi tiết:
Bài thơ Tự tình (II) của Hồ Xuân Hương
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan mấy nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy chòm.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình son trẻ tí con con.
- Em thích nhất hình ảnh “Mảnh tình san sẻ tí con con”
+ Mảnh tình - vốn đã ít, đã bé, đã không trọn vẹn lại còn phải 'san sẻ' thành ra gần như chẳng còn gì (tí con con) nên càng xót xa, tội nghiệp
=> Câu thơ nói lên cả nỗi lòng của người phụ nữ trong xã hội xưa, khi cảnh chồng chung vợ chạ đối với họ không phải là xa lạ.
Câu 4
Trả lời Câu hỏi 4 trang 139 SGK Văn 9 Chân trời sáng tạo
Xác định thành ngữ có trong đoạn trích sau và cho biết hiệu quả của việc sử dụng (những) thành ngữ này:
Vợ chàng quỷ quái, tinh ma,
Phen này kẻ cắp, bà già gặp nhau!
Kiến bò miệng chén chưa lâu.
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa!
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Phương pháp giải:
Xác định thành ngữ và nêu tác dụng
Lời giải chi tiết:
-Thành ngữ: Kẻ cắp bà già, kiến bò miệng chén.
+ Kẻ cắp bà già: Kẻ ranh mãnh gặp người ranh mãnh hơn. Kẻ ranh mãnh, xảo quyệt lại gặp người cao tay, dày kinh nghiệm hơn.
+ Kiến bò miệng chén: Bế tắc, cùng đường, không thể trốn đi đâu được; quẩn quanh, không thể thoát ra được.
Tác dụng: Tạo nhịp điệu cho câu thơ, câu thơ hàm súc, ngắn gọn, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sau. Thuý Kiều thông báo rằng với Thúc Sinh về việc mình sẽ gặp Hoạn Thư và Thuý Kiều lúc này không còn non nớt, ngây ngô như trước, cuộc nói chuyện sẽ căng thẳng.
Câu 5
Trả lời Câu hỏi 5 trang 139 SGK Văn 9 Chân trời sáng tạo
Nêu tác dụng của việc sử dụng từ Hán Việt trong ngữ liệu b, bài tập 1.
Phương pháp giải:
Nêu tác dụng của việc sử dụng từ Hán Việt
Lời giải chi tiết:
Tác dụng: Tăng sắc thái biểu cảm cho câu thơ trở nên trang trọng, tao nhã, khái quát và trực tượng hơn, làm nổi bật tâm trạng của Thuý Kiều dành cho Thúc Sinh một tình cảm mang ơn, tình sâu nghĩa nặng