Định hướng
- Yếu tố hình thức nghệ thuật nào đã được xác định để phân tích, đánh giá trong từng đoạn trích trên?
- Mỗi tác giả đã chỉ ra tác dụng của yếu tố hình thức ấy trong việc thể hiện nội dung, ý nghĩa như thế nào?
- Đoạn nào chủ yếu sử dụng thao tác phân tích và đoạn nào tập trung nêu cảm nhận, đánh giá của người viết? Hãy chỉ ra sự khác nhau giữa phân tích và đánh giá trong hai đoạn trích trên.
Phương pháp giải:
- Đọc kĩ hai đoạn trích.
- Đánh dấu yếu tố hình thức nghệ thuật được xác định để phân tích, đánh giá trong từng đoạn trích.
- Chỉ ra sự khác nhau giữa phân tích và đánh giá trong hai đoạn trích trên.
Lời giải chi tiết:
* Đoạn 1:
- Yếu tố hình thức nghệ thuật đã được xác định để phân tích, đánh giá trong đoạn trích số 1 là: Bút pháp hiện thực
- Tác giả đã chỉ ra tác dụng của yếu tố hình thức ấy trong việc thể hiện nội dung, ý nghĩa là:
+ Điều đó được thể hiện trong việc xây dựng các nhân vật, chia thành hai phe: chính thống và phản nghịch, đều rất thực
- Đoạn từ đầu đến “đều thực” là đoạn tập trung nêu cảm nhận, đánh giá của người viết và phần còn lại chủ yếu sử dụng thao tác phân tích.
* Đoạn 2:
- Yếu tố hình thức nghệ thuật đã được xác định để phân tích, đánh giá trong đoạn trích số 2 là: dùng cái động để gợi cái tĩnh
- Tác giả đã chỉ ra tác dụng của yếu tố hình thức ấy trong việc thể hiện nội dung, ý nghĩa là:
+ Giúp cảm xúc của Nguyễn Khuyến được tiết chế, giấu kín
+ Lối thể hiện ấy giữ cho tình nồng mà lời vẫn đạm.
- Từ đầu đến “bao nhiêu xa vắng của thiên không” chủ yếu sử dụng thao tác phân tích và đoạn còn lại tập trung nêu cảm nhận, đánh giá của người viết.
- Sự khác nhau giữa phân tích và đánh giá trong hai đoạn trích trên là:
+ Ở đoạn 1 thì người viết tập trung nêu cảm nhận, đánh giá trước rồi mới đi vào phân tích
+ Còn ở đoạn 2 thì người viết phân tích xong mới nêu cảm nhận, đánh giá của mình.
Viết văn thực hành
Viết một bài phân tích văn học nhận diện nét đặc trưng của nội dung hoặc hình thức nghệ thuật trong một tác phẩm văn học đã được tiếp xúc.
Cách tiếp cận:
- Hiểu rõ yêu cầu của việc phân tích nội dung và hình thức nghệ thuật của một tác phẩm văn học.
- Lập kế hoạch và sắp xếp ý tưởng chi tiết.
- Tìm kiếm tài liệu tham khảo.
- Thực hiện viết bài.
- Kiểm tra và sửa lỗi (nếu cần).
Chi tiết hướng dẫn:
Kế hoạch tổ chức
I. Giới thiệu
Tổng quan vấn đề đề cập: phân tích và nhận diện chủ đề cùng với các yếu tố nghệ thuật trong bài thơ Sang thu (Hữu Thỉnh).
II. Thân bài
1. Nội dung
Bức tranh thơ hiển thị những tâm trạng, những cảm xúc sâu sắc trước vẻ đẹp tự nhiên trong những ngày cuối hạ giữa bối cảnh khói lửa.
2. Các yếu tố nghệ thuật đặc sắc
a. Khổ 1: Dấu hiệu của mùa thay đổi
- Dấu hiệu “hương ổi” → mang đậm hương vị quê hương.
- Động từ mạnh mẽ “phả” → gợi nhớ về màu vàng ươm, hương thơm dịu dàng của “hương ổi” trong những ngày cuối hạ, đầu thu đang phả vào trong “gió se”.
- Dấu hiệu “sương thu” kết hợp từ ngữ “chùng chình” → gợi nhớ những bước chân thong thả của mùa thu.
b. Khổ 2: Bức tranh thiên nhiên mùa thu
- Từ ngữ “dềnh dàng” → dòng chảy bớt vội vã, như muốn trải qua một cách chậm rãi để thưởng thức vẻ đẹp nhẹ nhàng, lãng mạn của mùa thu.
- Nhân hóa “chim vội vã” → tương phản với sự “dềnh dàng” của dòng sông, những đàn chim đang nhanh chóng đi kiếm thức ăn và bay về phương Nam để tránh cái lạnh của mùa đông.
- Động từ “vắt” được sử dụng để miêu tả hình ảnh của đám mây mùa hạ: đám mây được đặt ngang trên bầu trời, rải rác, tạo nên sự vui nhộn, đầy sáng tạo.
c. Khổ 3: Tâm trạng và suy ngẫm về cuộc sống
- Các từ ngữ như “vẫn còn, đã vơi dần, cũng bớt bất ngờ” được sử dụng để mô tả thời gian và sự hiện hữu của các hiện tượng như nắng, mưa, sấm.
- “Nắng, sấm, mưa”: hình ảnh này tượng trưng cho những thay đổi, những khó khăn, thử thách trong cuộc sống của con người.
- “Hàng cây đứng tuổi”: một hình ảnh ẩn dụ nói về những con người đã trải qua nhiều khó khăn, gian khổ.
III. Kết luận
Xác nhận lại giá trị của bài thơ.
Bài viết chi tiết
Một mùa thu lãng mạn và trữ tình đã trở thành một chủ đề phổ biến trong thơ ca. Hữu Thỉnh – một tác giả có kinh nghiệm từ quân đội, với những câu thơ nhẹ nhàng, sâu sắc đã đem đến cho người đọc những cảm xúc sâu sắc, nỗi niềm trước thiên nhiên. Bằng sự sáng tạo và tinh tế trong cách sử dụng ngôn từ, tác giả đã tạo ra một bức tranh Sang thu thú vị và mới lạ.
Sang thu với chủ đề về thiên nhiên mùa thu cùng với tâm hồn bi đến trước cảnh vật thiên nhiên trong những ngày hạ cuối cùng giữa những ngày khói lửa. Ngoài ra, là những đặc điểm nghệ thuật độc đáo, sự sáng tạo trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh ẩn dụ, nhân hóa để làm nổi bật chủ đề trữ tình được nói đến trong bài thơ – mùa thu.
Nếu Xuân Diệu dùng hình ảnh “mơ phai” của lá để báo hiệu mùa thu đến thì Hữu Thỉnh lại cảm nhận qua “hương ổi”, một mùi hương quen thuộc với quê hương Việt Nam: Bỗng nhận ra hương ổi/ Phả vào trong gió se. Động từ mạnh mẽ “phả” đưa ta về với màu vàng ươm, hương thơm dịu dàng của “hương ổi” trong những ngày cuối hạ, đầu thu đang phả vào trong “gió se”.
Dấu hiệu tiếp theo là hình ảnh sương thu khi Sương chùng chình qua ngõ/ Hình như thu đã về. Sương thu đã được nhân hóa qua từ ngữ “chùng chình” để diễn tả những bước đi thong thả của mùa thu. Chữ “se” phối hợp với “về” tạo ra những âm điệu thơ mộng, nhẹ nhàng, tương tự như cảm giác mà mùa thu mang lại. Khổ thơ đầu tiên được Hữu Thỉnh cảm nhận ở nhiều khía cạnh, thể hiện một cách sáng tạo những đặc điểm, dấu hiệu mùa thu đến với quê hương thanh bình.
Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sang thu'' được mở rộng, ở chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông qua khổ thơ thứ hai:
Sóng được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây màu hạ
Vắt nửa mình sang thu
Nước sông màu thu trên miền đất Bắc trong xanh, êm đềm, tràn đầy nên mới “dềnh dàng”, nhẹ nhàng như đang cố gắng chảy chậm lại để cảm nhận rõ nhất những đặc điểm đẹp của thiên nhiên khi vào thu. Đối lập với sự “dềnh dàng” đó là sự “vội vã” của những đàn chim đang bay về phương Nam tránh rét. Những đàn chim này gợi nhớ đến đàn ngỗng trời mà thi sĩ Nguyễn Khuyến đã đề cập trong Thu vịnh: Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đều được nhân hóa. Tác giả sử dụng động từ “vắt” để miêu tả cho mây. Đám mây như được đặt ngang trên bầu trời, rải rác, tạo ra sự vui nhộn, sáng tạo. Bốn câu thơ đã mô tả rõ những biến đổi tinh tế của cảnh vật từ mùa hè sang mùa thu. Mỗi cảnh vật mang một đặc điểm riêng nhưng tất cả đều làm cho bức tranh mùa thu trở nên hấp dẫn hơn.
Những dư âm của mùa hạ vẫn còn: ánh nắng, cơn mưa, tiếng sấm giòn. Tuy nhiên, tất cả đã trở nên dịu dàng hơn, êm dịu hơn, không còn bất ngờ và gắt gỏng nữa. Đồng thời, những suy ngẫm về cuộc sống của tác giả cũng được truyền đạt qua những câu từ nhẹ nhàng đó.
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.
Sang thu là một bài thơ xuất sắc của Hữu Thỉnh. Bao cảm xúc dâng trào trong những vần thơ đẹp, dịu dàng, lãng mạn. Tác giả không chỉ sử dụng bút mà còn sử dụng những nét vẽ nhỏ, mảnh khác nhau nhưng đã tạo ra hình ảnh mùa thu tươi sáng, hấp dẫn. Dù chỉ là một vài chi tiết nhỏ, nhưng tác giả đã vẽ nên bức tranh về mùa thu trong sáng, tĩnh lặng, phong cách... đầy cuốn hút.