Biên soạn bài văn Xúy Vân giả ngây thơ trên các trang 127, 128, 129, 130, 131 sao cho ngắn nhất vẫn đảm bảo đầy đủ ý, tuân theo nội dung sách Ngữ văn lớp 10 Kết nối tri thức với đời sống giúp học sinh dễ dàng hơn trong việc soạn bài văn lớp 10.
Soạn bài Xúy Vân giả ngây thơ (trang 127) - phương pháp ngắn nhất của Kết nối tri thức
* Trước khi đọc
Câu hỏi 1 (trang 127 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức):
- Nếu có ai đó mời em dành thời gian để xem một vở kịch truyền thống, em sẽ đồng ý nếu có thời gian
Câu hỏi 2 (trang 127 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức):
- Tôi đã nghe về vở kịch này nhưng chưa có dịp thưởng thức
* Đọc văn bản
Gợi ý trả lời câu hỏi từ văn bản:
1. Khi diễn lời thoại này, diễn viên sẽ thực hiện các động tác diễn xuất như thế nào?
- Khi thể hiện lời thoại, diễn viên sẽ múa theo nhạc, thể hiện động tác mạnh mẽ, di chuyển không ổn định, …
2. Lời thoại này thể hiện trạng thái tinh thần của nhân vật như thế nào?
- Buồn bã, đau đớn.
- Dưới tiếng la mắng, cô ấy đã rơi lệ với lòng tức giận và ân hận.
- Gập tay như một lời kêu gọi lòng từ các thành viên của cộng đồng, xã hội hy vọng mọi người sẽ hiểu và thông cảm cho họ.
3. Chú ý cách nhân vật tự giới thiệu trước khán giả
- Nhân vật nói về nguồn gốc, họ hàng, và một số thông tin cơ bản về bản thân, sở thích, hoàn cảnh sống của mình.
4. Hình ảnh của cặp vợ chồng ôm nhau ở đây mang ý nghĩa gì?
- Hình ảnh của cặp đôi ấy biểu hiện ước mơ giản dị của Xúy Vân, mong muốn cuộc sống gia đình đơn giản, hạnh phúc, và ấm áp, là mục tiêu cho tương lai của cô ấy. Đó là một gia đình hạnh phúc, nơi chồng cấy cày, vợ mang nắng gió, và cả hai cùng nhau chia sẻ hạnh phúc.
5. Chú ý ý thức tự phát của nhân vật về bản thân
- Đây là cảm xúc sâu sắc của cô gái khi mất đi tình yêu, cảm giác cô đơn vô cùng, đêm đêm ôm chăn mỏi mệt vì thiếu vắng hạnh phúc.
- Tự so sánh bản thân như một con cá rô bé nhỏ bơ vơ nằm trong vũng lầy, để cho nhiều người khác dùng cần câu chinh phục để trách móc số phận.
- Bị lạc lõng không biết đi về đâu để tránh khỏi những cạm bẫy của cuộc sống, và phải chịu đựng bao nỗi oan trái.
6. Lưu ý sử dụng ngôn từ và cách kết nối đặc biệt của những người điên hoặc giả điên
- Các hiện tượng được mô tả theo cách không bình thường:
+ Trứng gà dành cho con quạ - ngồi trên cây
+ Trong nhà thờ - buổi tối muộn - và cái dấu
+ Chiếc mũ - cái đò, cái cột
+ Dưới lòng sông - buôn bán đồ ăn
+ Trên biển - chặt cây đốn gỗ - xây nhà
+ Lên lưng gà - đánh đuổi kẻ thù
* Sau khi đọc
Nội dung chính của 'Xúy Vân giả dại':
Văn bản: Xúy Vân với những câu hát kỳ lạ, mơ mộng, nhưng cũng chứa đựng sự thực tế và đau khổ về cuộc sống không như ý, không thỏa mãn. Sau những lời hát, là lời kể về nỗi cô đơn, khao khát tình yêu và hạnh phúc nhưng lại gặp phải sự thất vọng và mâu thuẫn với hiện thực khắc nghiệt.
Gợi ý trả lời sau khi đọc:
Câu 1 (trang 131 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức):
- Sau khi yêu Kim Nham, chàng trai miệt mài ôn sách chờ thi vào đại học, để Xúy Vân lẻ loi, buồn rầu. Ở quê, Xúy Vân bị Trần Phương quyến rũ, hứa hẹn những điều ngọt ngào. Cô giả vờ điên để trốn thoát khỏi Kim Nham và theo đuổi Trần Phương.
Câu 2 (trang 131 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức):
- Trong vở chèo Xúy Vân giả dại, đoạn lời thoại cuối cùng 'ngôn ngữ điên' của nhân vật được thể hiện rõ nhất từ câu 'Chiếc trống cơm, ai khéo vỗ nên bông' đến 'cưỡi con gà đi đánh giặc'.
- Dựa vào hình thức: ghi chú hát ngược; và nội dung lời thoại: các sự vật hiện tượng được mô tả theo cách không bình thường:
+ Trứng gà đánh con quạ - ngồi trên cây
+ Trong nhà thờ - buổi tối muộn - và cái dấu
+ Mũ - gậy, và cột
+ Dưới dòng sông - bán hàng đồ ăn
+ Trên biển - chặt cây để làm nhà
+ Lên lưng gà - đánh giặc
-> Các câu nói ngược, chứa đựng những ý tưởng phi lý, kỳ dị, gợi lên cảm giác nội tâm hoang mang, bất ổn, và trớ trêu. Nhân vật dường như rơi vào trạng thái hỗn loạn, điên cuồng, lạc lõng, và mất phương hướng.
Câu 3 (trang 131 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức):
- Trong phần đầu, Xúy Vân xuất hiện với những lời hát và động tác hoang đường, tâm trạng lúc tỉnh lúc mê, lúc ngây lúc dại. Cô đã kể với bà Nguyệt về tình cảm của mình, sau đó cô đã dùng hình ảnh của con đò tình duyên để miêu tả bản thân, một phụ nữ chờ đợi chồng, hạnh phúc chưa đầy đủ.
“Tôi là đò, đò nỏ nghiêng
Tôi càng chờ, càng trì hoãn chuyến đò”
- Mặc dù từ lời hát xuất phát từ trạng thái mơ mộng nhưng qua đó vẫn thấy nỗi đau khổ, lo âu của một cô gái trước sự trôi qua của tuổi trẻ, hình ảnh của cô như một du khách đơn độc đứng trên bến đò trống trải nhưng chưa thấy con đò.
- Trong những câu hát tiếp theo, dưới dạng thơ lục bát biến thể, Xúy Vân thể hiện tâm trạng của một người phụ nữ đã kết hôn, bị ràng buộc, mọi thứ phụ thuộc vào chồng. Muốn vượt sông một lần nữa thì phải kết thúc tình duyên cũ với chồng:
“Không nên ở lại với gia đình
Ở lại làm gì nữa khi chồng cũ bị người khác chế giễu”
→ Luôn mong muốn tình yêu và tin tưởng vào một tương lai hạnh phúc bên người tình mới của mình.
“Gió thổi thì cứ để gió thổi
Chúng ta sẽ mãi bên nhau như lời hứa”
- Hình ảnh mạnh mẽ của Xúy Vân theo đuổi tình yêu đã từng bị coi là vi phạm các giá trị đạo đức, phá vỡ quy tắc xã hội, trở thành một người nổi loạn, vì cô quá khao khát tình yêu và bị chìm đắm trong nó đến mức không thể thoát ra.
Câu 4 (trang 131 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức):
- Giữa con gà và con công ta sẽ thấy sự khác biệt về loài, tính cách. Mặc dù con gà rừng làm việc nhưng vẫn bị gắn liền với con công, thể hiện sự bất công xã hội mà Xúy Vân phải chịu đựng:
- “Bông bông dắt, bông bông díu
Xa xa vẫy vùng, xa xa nói thầm
Cho ta trải nghiệm một mâu thuẫn, sự đấu tranh không thể hòa giải giữa đạo đức con người và tình yêu chân thành.
“Người hàng xóm xa xôi, cảm thấy lòng khao khát về mùa xuân”
“Khao khát mùa xuân” phản ánh sự phẫn nộ với chính bố mẹ đã đẩy nàng vào tình cảnh trớ trêu này. Câu hỏi đầy trách nhiệm nhưng không có lời giải đáp: “Người hàng xóm xa xôi” càng làm nổi bật thân phận đáng thương của Xúy Vân.
“Chờ đợi cho bông lúa chín vàng
Để anh ta đi gặt, để nàng mang cơm”
Mang đậm tinh thần nông thôn, đây là ước mơ đơn giản nhưng đầy khao khát được sống trong yên bình, hạnh phúc trong cuộc sống hàng ngày, cũng là mục tiêu mà nàng hướng đến trong tương lai
“Mời nhau lên đỉnh Thiên Thai
Bắt gặp hai chú quạ đang thưởng thức xoài trên cành”
Hình ảnh hai chú quạ đang thưởng thức xoài trên cành là một khung cảnh tuyệt đẹp, mang đầy sự gần gũi và thân thuộc, không thể phân ly. Việc mời nhau lên đỉnh Thiên Thai là ước nguyện của Xúy Vân và Trần Phương để có một cuộc sống giản dị, xa lánh cuộc sống đời thường, chỉ có hai người.
Câu 5 (trang 131 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Liên kết tri thức):
- Cách gọi: nhân vật chính kể về bản thân, tự đặt biệt danh, tự nhận xét về hành động hoặc tính cách của chính mình
- Tương tác giữa khán giả và diễn viên: được gọi là đoạn thoại mở, tạo ra một sân khấu gần gũi, khán giả có thể thêm lời để đáp lại nhân vật
Câu 6 (trang 131 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Liên kết tri thức):
- Do tính chất biểu diễn của nghệ thuật chèo, ngôn ngữ chèo thường sử dụng những hình thức thơ quen thuộc, dễ nhớ và có vần điệu:
+ thể thơ tự do:
Nỗi đau thấu đáo van xin
Than thở cùng bà Nguyệt
Giao tranh dữ dội
Chết mệt dưới ánh trăng
+ thể thơ lục bát:
Gió trăng thì mặc gió trăng
Hỡi người ơi, hãy giữ vững lấy đạo, đừng bao giờ quên
- Sử dụng ngôn ngữ ca dao
Khi đi qua sông phải lạc đò
Đêm đến phải tìm đến cô bán hàng
Câu 7 (trang 131 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Liên kết tri thức):
- Hôn nhân là quy định nghiêm ngặt, con cái phải tuân thủ ý cha mẹ
- Ba lòng bốn phận
- Cuộc sống của người dân làng chủ yếu tự chăm sóc, tự lập, kín đáo, ít khi tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Hàng xóm láng giềng sống gần nhau thường hòa thuận, giúp đỡ nhau khi cần thiết, tạo ra một môi trường đầy tình thương và sự hỗ trợ
Câu 8 (trang 131 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Liên kết tri thức):
- Để đến gần Trần Phương, Xúy Vân đã quyết định giả dại để có lý do có thể ly hôn với Kim Nhan.
- Xúy Vân, một cô gái xinh đẹp và mạnh mẽ, luôn mang trong mình khát vọng hạnh phúc. Nhưng trong xã hội phong kiến cũ, phụ nữ không có quyền tự quyết định về hạnh phúc hay lựa chọn đối tượng yêu thương. Cuộc hôn nhân của Xúy Vân với Kim Nham là do cha mẹ sắp đặt, không có tình yêu thực sự giữa hai người.
- Ước mơ của nàng là giản dị và chân thành. Sau khi kết hôn với gia đình Kim Nham, Xúy Vân thất vọng khi thực tế không giống như mong đợi, với chồng mê công việc và bỏ quên nàng. Điều này được thể hiện qua việc lặp lại câu hát: “Bông bông dắt, bông bông díu – xa xa lắc, xa xa líu”, thể hiện tâm trạng cô đơn và bất mãn của nàng.
→ Vì tình yêu, nàng quyết định bất kể vượt qua những giới hạn của xã hội và tôn trọng của giáo phong kiến về phẩm hạnh của phụ nữ.
Câu 9 (trang 131 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Liên kết tri thức):
- Chèo là loại hình nghệ thuật truyền thống của dân gian, được tạo thành từ hai yếu tố chính: tích và trò. Tích là nội dung được kể bằng văn học, còn trò là biểu diễn nghệ thuật cốt truyện trên sân khấu.
- Trong nghệ thuật chèo, trò biểu diễn là sự kết hợp hài hòa giữa múa, âm nhạc và kịch bản văn học. Múa đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện tính cách của nhân vật, làm cho vở kịch trở nên sống động và hấp dẫn khán giả.
- Âm nhạc là trụ cột của nghệ thuật chèo. Trong đó, phần hát bao gồm nhiều điệu nhạc khác nhau, sắp xếp thành các hệ thống riêng. Chèo sử dụng nhiều nhạc cụ dân tộc như đàn nhị, trống. Trống được sử dụng để duy trì nhịp điệu cho hát và múa, cũng như làm nền cho câu hát. Âm nhạc trong chèo ngày càng phong phú và đa dạng khi kết hợp giữa âm nhạc dân tộc và hiện đại.
* Kết nối đọc – viết
Bài tập (trang 131 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Liên kết tri thức): Viết một đoạn văn (khoảng 150 từ) trình bày ý kiến của bạn về tâm trạng của nhân vật Xúy Vân qua màn biểu diễn chèo giả dại của cô.
Đoạn văn tham khảo:
Vở chèo Kim Nham kể về câu chuyện hôn nhân của Kim Nham và Xúy Vân, một người chú trọng vào việc học hành, trong khi người kia khát khao tình yêu. Sự khác biệt về tư tưởng đã gây ra bi kịch tình yêu giữa họ. Trong đoạn trích “Xúy Vân giả dại”, chúng ta thấy Xúy Vân giả điên nhằm mong muốn thoát khỏi Kim Nham, nhưng bên trong đó là nỗi buồn tâm sự của một người phụ nữ thiếu tình thương. Xúy Vân, trong toàn bộ vở chèo, còn phải đối mặt với những khó khăn khác nữa. Cô không được quyền chọn lựa hôn nhân và phải lấy Kim Nham theo sắp đặt của cha mẹ. Đối mặt với tình hình bế tắc và cảm thấy cô đơn trong gia đình chồng, Xúy Vân đã quyết định tìm kiếm tự do, mặc dù điều này đầy bi kịch. Xúy Vân cảm thấy cô đơn như người muốn sang sông mà không có đò để đi. Hình ảnh con đò cũng đại diện cho Kim Nham, người đã đặt nàng vào tình thế chờ đợi. Trong câu ca dao, chúng ta cũng thấy hình ảnh con đò:
“Trăm năm hẹn hò không thành
Cây đa bến cũ, con đò đã thay đổi”
Tiếng hét của Xúy Vân xé tan sự yên bình như lời trách mắng Kim Nham. Phần cuối với hình ảnh Xúy Vân với tóc bời bạt, đôi mắt ngây ngô làm cho chúng ta cảm thấy thương cảm. Những nghịch lý này thể hiện cuộc sống đầy bất hạnh của Xúy Vân. Ở đây cũng có điểm tương đồng với ca dao hài hước và châm biếm. Dù có phê phán, nhưng cũng thể hiện lòng khao khát được yêu thương và hạnh phúc là điều chính đáng, là ước mơ của mọi người.
Xem thêm bài viết Soạn Xúy Vân giả dại (Cánh diều):