Dàn ý chi tiết
1.Đặt vấn đề
- Nêu vấn đề báo cáo nghiên cứu (soạn báo cáo nghiên cứu về hình thức biểu diễn sử thi trong đời sống những người dân Ê đê)
2.Giải quyết vấn đề
Luận điểm 1: phương pháp nghiên cứu
- Giới thiệu hình thức sử thi.
- Phương pháp nghiên cứu là phương pháp phân tích – tổng hợp.
Luận điểm 2: Nêu khái niệm sử thi
- Là một thuật ngữ văn học dùng để chỉ những tác phẩm theo thể tự sự, có nội dung hàm chứa những bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống nhân dân với nhân vật trung tâm là những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho một thế giới nào đó.
- Phản ánh những sự kiện có tính lịch sử và tính toàn dân.
Luận điểm 3: Đôi nét về đồng bào Ê đê
- Xếp thứ 12 trong cộng đồng 54 dân tộc anh em Việt Nam.
- Có khoảng hơn 331.000 người đang cư trú tập trung ở cấp tỉnh Đắk Lắk và miền Tây của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên.
- Thuộc nhóm cư dân ngôn ngữ Mã Lai có nguồn gốc lâu đời từ vùng biển.
Luận điểm 4: Ảnh hưởng của sử thi đối với dân tộc Ê đê
- Qua trang phục:
+ Y phục cổ truyền của dân tộc Ê đê là màu đen, có điểm những hoa văn sặc sỡ.
+ Nữ giới sẽ mặc áo và quần váy còn nam giới sẽ đóng khố.
+ Các đồ trang sức bằng bạc, đồng,...
- Nhà dài và cồng chiêng của người Ê đê:
+ Nhà dài là công trình độc đáo nhằm thích ứng với thiên nhiên tránh thiên tai đồng thời cũng là nơi để họ sinh hoạt giao lưu văn hóa.
+ Nhà dài có hình con thuyền được làm bằng tre nứa và bằng gỗ mặt sà, độ dài của ngôi nhà thường 15 đến 100m tùy theo từng số lượng thành viên của gia đình.
+ Cồng chiêng là một sức mạnh về cả vật chất và tinh thần, nó thể hiện cho sự giàu có của buôn làng.
+ Thể hiện đời sống tâm linh cao quý của dân tộc Ê đê.
+ Mỗi hồi chiêng vang lên giúp con người có thể liên kết với các đấng thần linh, là cầu nối giữa cộng đồng và thế giới tâm linh.
- Qua lối hát kể:
+ Hát kể sử thi chủ yếu giúp người dân ca ngợi cách anh hùng, tôn vinh những người đã sáng lập và lưu truyền buôn làng, những người có công giúp đồng bào thoát khỏi sự áp bức.
+ Phản kháng lại những điều trái đạo lý, ca ngợi những điều chính nghĩa, sức mạnh của tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình cùng những nét đẹp và cuộc sống hằng ngày của buôn làng.
+ Ngôn ngữ hát kể sử thi là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời và nhạc.
3. Kết luận
- Khái quát lại bài báo cáo
Bài siêu ngắn Mẫu 1
Các sáng tác sử thi giúp chúng ta biết thêm về nguồn gốc sử thi biết trân trọng những giá trị văn hoá dân tộc và góp phần vào sự phong phú các thể loại dân tộc. Các sáng tác của thần thoại đánh dấu sự ra đời của ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ, con người dần ý thức được việc truyền lại những tri thức, nhận thức, kinh nghiệm cho đời sau và đó là cơ sở để thần thoại tiếp tục ra đời, tiếp tục được làm mới, thêm sức hấp dẫn, là món ăn tinh thần của con người Để những giá trị tinh thần ấy ấy được giới trẻ đón nhận, để văn hoá nói chung và giá trị văn học dân gian không bị mai một ta cần: mở nhiều buổi triển lãm, ngoại khóa về văn hoá và nâng cao tinh thần bảo vệ, phát triển nền văn hoá dân tộc. Trong đó phải kể đến sử thi Ê-Đê. Hình thức biểu diễn sử thi của người dân Ê đê thường là hình thức hát, hát kể,.... Hát kể sử thi là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian có từ lâu đời của cộng đồng Ê đê, nó được tồn tại và phát triển từ đời này qua đời khác. Nội dung của hát kể sử thi chủ yếu giúp người dân ca ngợi các anh hùng, tôn vinh những người đã sáng lập và lưu truyền buôn làng, những người có công giúp đồng bào thoát khỏi sự áp bức. Ngoài ra đó còn là nơi để mọi người phản kháng lại những điều trái đạo lý, ca ngợi những điều chính nghĩa, sức mạnh của tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình cùng những nét đẹp và cuộc sống hằng ngày của buôn làng. Ngôn ngữ hát kể sử thi là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời và nhạc. Các câu chữ được gắn kết hòa quyện với nhau tạo lê tạo nên sức hút lôi cuốn người nghe.
Mẫu 2: Tạo thơ siêu ngắn
Sử thi là những tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn ngữ có vần, nhịp, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hay nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại. Văn học sử thi hướng tới cái chung, cái cao cả, sự kiện lịch sử, số phận toàn dân, chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nó thường phản ánh những sự kiện có ý nghĩa lịch sử và có tính cách toàn dân. Sử thi không phải là những số phận cá nhân mà là tiếng nói của cộng đồng, của dân tộc trước thách thức quyết liệt. Nhân vật trung tâm không đại diện cho con người cá nhân, mà đại diện cho giai cấp, dân tộc, thời đại với tính cách dường như kết tinh đầy đủ những phẩm chất cao quý của cộng đồng. Con người sống chủ yếu với hiện tại và tương lai. Là tác phẩm theo thể tự sự, có nội dung hàm chứa những bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống nhân dân với nhân vật trung tâm là những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho một thế hệ. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam có thể kể đến như sử thi Ê-Đê. Hình thức biểu diễn sử thi của người dân Ê đê là hình thức hát, hát kể,… Hát kể sử thi là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã có từ lâu đời của cộng đồng người Ê đê, được tồn tại bằng hình thức truyền miệng từ đời này qua đời khác.Nội dung của hát kể sử thi chủ yếu ca ngợi các anh hùng dân tộc, tôn vinh những người có công tạo lập buôn làng, những người anh hùng có công bảo vệ cộng đồng thoát khỏi sự diệt vong, áp bức và sự xâm chiếm của các thế lực khác; …Ngôn ngữ diễn xướng của sử thi Êđê là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời và nhạc. Ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần: Người Ê đê thực hiện hát sử thi trong cuộc sống hàng ngày, trong lễ nghi và lao động. Qua đó thể hiện sự tôn sùng của người Ê-Đê về sử thi của dân tộc họ.
Mẫu 3: Tạo thơ siêu ngắn
Sử thi là sáng tác tự sự dân gian có cốt truyện kể về quá khứ anh hùng của cộng đồng. Đề tài và nhân vật anh hùng trong sử thi miêu tả quá khứ hào hùng và chiến công oanh liệt. Con người và mọi thứ đều hoàn hảo, phi thường và lý tưởng hóa. Thế giới sử thi và âm điệu sử thi là âm điệu hoành tráng. Ngôn ngữ sử thi lộng lẫy và lung linh, hấp dẫn. Có nhiều loại sử thi như: sử thi mahabharata, Sử thi Ramayana, sử thi Iliad…. ở Việt Nam có sử thi Đăm Săn, sử thi Đăm Noi,…Trong đó nổi tiếng có sử thi Ê-Đê. Sử thi Ê đê thường phản ánh triết lý về vũ trụ với thế giới thần linh, được chia thành ba tầng chính: tầng trời, tầng mặt đất, và tầng dưới mặt đất. Đây là thế giới mà con người và thần linh giao tiếp, gần gũi với nhau. Tác phẩm sử thi còn thể hiện xã hội cổ đại của người Ê đê, với cuộc sống cộng đồng bền vững, bình đẳng và giàu có. Trong bức tranh này, quyền lực trong gia đình mẫu hệ được đặt lên cao, đồng thời để cao vai trò quan trọng của phụ nữ trong việc quản lý và bảo vệ hạnh phúc gia đình. Các giá trị văn hóa, lịch sử và tinh thần dân tộc Ê đê được thể hiện một cách sâu sắc qua những tình tiết trong sử thi, góp phần giữ gìn và phát triển di sản văn hóa độc đáo của họ.
Mẫu 1: Tạo thơ tham khảo
Các tác phẩm sử thi giúp chúng ta hiểu thêm về nguồn gốc của sử thi, trân trọng những giá trị văn hóa dân tộc và đóng góp vào sự đa dạng của các thể loại dân tộc. Đặc biệt, hình thức biểu diễn sử thi trong đời sống của người Ê đê mang những nét độc đáo, riêng biệt.
Sử thi là một khái niệm văn học để chỉ những tác phẩm theo thể tự sự, có nội dung chứa đựng những bức tranh toàn diện về đời sống của nhân dân với nhân vật trung tâm là những anh hùng, dũng sĩ đại diện cho một thế giới nào đó. Văn học sử thi hướng tới cái chung, cái cao quý của toàn nhân dân, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nó thường phản ánh những sự kiện có tính lịch sử và tính toàn dân. Là nơi thể hiện tiếng nói chung của cộng đồng, của dân tộc trước những thách thức. Nhân vật trong các câu truyện sử thi thường là nhân vật trung tâm đại diện cho con người, đại diện cho dân tộc hay một thời đại.
Đồng bào dân tộc Ê đê xếp thứ 12 trong cộng đồng 54 dân tộc anh em Việt Nam. Theo nghiên cứu hiện nay, ước tính có hơn 331.000 người đang cư trú tập trung ở cấp tỉnh Đắk Lắk và miền Tây của hai tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên. Theo nhiều nguồn nghiên cứu, người Ê đê thuộc nhóm cư dân ngôn ngữ Mã Lai có nguồn gốc lâu đời từ vùng biển.
Sử thi vốn là hình thức để nói đến cái ta chung của cộng đồng, ca ngợi những nét đẹp của các đấng anh hùng. Chính vì thế sử thi có ảnh hưởng to lớn với dân tộc Ê đê. Sức ảnh hưởng đó thể hiện qua hình thức sinh hoạt, góp phần quan trọng vào trong lối suy nghĩ hàng ngày của người dân Ê đê. Người Ê đê tạo ra cho dân tộc mình những bộ trang phục độc đáo khác biệt, nó mang những ý nghĩa vô cùng tốt đẹp. Y phục cổ truyền của dân tộc Ê đê là màu đen, có điểm những hoa văn sặc sỡ. Nữ giới sẽ mặc áo và quần váy còn nam giới sẽ đóng khố. Ngoài ra điểm nổi bật trên trang phục của họ là các đồ trang sức bằng bạc, đồng,... Người Ê đê là một trong những dân tộc của Việt Nam mang những nét văn hóa truyền thống độc đáo niềm tự hào lớn của dân tộc.
Nhà dài là biểu tượng cho giá trị văn hóa và tinh thần của người Ê đê. Đây là công trình độc đáo nhằm thích ứng với thiên nhiên tránh thiên tai đồng thời cũng là nơi để họ sinh hoạt giao lưu văn hóa. Nhà dài có hình con thuyền được làm bằng tre nứa và bằng gỗ mặt sà, độ dài của ngôi nhà thường 15 đến 100m tùy theo từng số lượng thành viên của gia đình. Đây chính là lối kiến trúc riêng biệt của đồng bào Ê đê.
Người Ê đê nổi tiếng với nét văn hóa cồng chiêng, mang sức ảnh hưởng lớn đến đời sống sinh hoạt của biết bao thế hệ. Đồng bào Tây Nguyên coi cồng chiêng là một sức mạnh về cả vật chất và tinh thần, nó thể hiện cho sự giàu có của buôn làng. Từ lâu đời cồng chiêng vốn là tài sản vô cùng quý giá của ông bà ta để lại, được lưu truyền từ đời này sang đời khác thể hiện đời sống tâm linh cao quý của dân tộc Ê đê. Mỗi hồi chiêng vang lên giúp con người có thể liên kết với các đấng thần linh, là cầu nối giữa cộng đồng và thế giới tâm linh.
Hình thức biểu diễn sử thi của người dân Ê đê thường là hình thức hát, hát kể,.... Hát kể sử thi là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian có từ lâu đời của cộng đồng Ê đê, nó được tồn tại và phát triển từ đời này qua đời khác. Nội dung của hát kể sử thi chủ yếu giúp người dân ca ngợi các anh hùng, tôn vinh những người đã sáng lập và lưu truyền buôn làng, những người có công giúp đồng bào thoát khỏi sự áp bức. Ngoài ra đó còn là nơi để mọi người phản kháng lại những điều trái đạo lý, ca ngợi những điều chính nghĩa, sức mạnh của tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình cùng những nét đẹp và cuộc sống hằng ngày của buôn làng. Ngôn ngữ hát kể sử thi là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời và nhạc. Các câu chữ được gắn kết hòa quyện với nhau tạo lê tạo nên sức hút lôi cuốn người nghe.
Sử thi Ê đê chính là một bức tranh rộng và hoàn chỉnh về đời sống của dân tộc, người dân Ê đê sử dụng lối hát kể như một cách để bảo tồn và giữ gìn những giá trị văn hóa lâu đời. Qua đó tuyên truyền những nét đẹp này đến với nhiều đồng bào khác, giữ gìn giá trị tốt đẹp của bao đời mà cha ông để lại.
Mẫu 2: Tài liệu tham khảo
Sử thi Ê đê xuất hiện trong bối cảnh xã hội loài người chứng kiến những biến động lớn do các cuộc di cư lịch sử, đặc biệt là các cuộc chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc để giành địa bàn sinh sống ở vùng rừng núi Tây Nguyên.
Dân tộc Ê đê xếp thứ 12 trong số 54 dân tộc anh em tại Việt Nam. Ước tính có hơn 331.000 người Ê đê cư trú chủ yếu tại các tỉnh: Đắk Lắk, phía Nam của Gia Lai và miền Tây của Khánh Hòa và Phú Yên. Người Ê đê gọi sử thi là klei khan. 'Klei' có nghĩa là lời, bài; 'khan' có nghĩa là hát kể. Hát kể klei khan không chỉ là hát kể thông thường mà còn chứa ý nghĩa ngợi ca. Đây thực chất là một hình thức kể chuyện tổng hợp thông qua hát kể.
Các tác phẩm sử thi đều phản ánh quan niệm về vũ trụ với thế giới thần linh gồm ba tầng rõ rệt: tầng trời, tầng mặt đất và tầng dưới mặt đất - thế giới mà con người và thần linh gần gũi với nhau; phản ánh xã hội cổ đại của người Ê đê, cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng bình đẳng, giàu có; phản ánh quyền lực gia đình mẫu hệ, đề cao vai trò của phụ nữ trong quản lý và bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Hát kể sử thi là loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian có từ lâu đời của cộng đồng người Ê đê, được truyền miệng từ đời này qua đời khác. Nội dung của hát kể sử thi chủ yếu ca ngợi các anh hùng dân tộc, tôn vinh những người đã có công tạo lập buôn làng, những anh hùng bảo vệ cộng đồng thoát khỏi sự diệt vong, áp bức và xâm chiếm từ các thế lực khác; đề cao sự sáng tạo, trí tuệ, tinh thần đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau trong khó khăn, nêu cao chính nghĩa, phản đối những điều không đạo lý, luật lệ; ca ngợi vẻ đẹp về sức mạnh thể chất và tinh thần, tình yêu, tình cảm gia đình, mong muốn chinh phục thiên nhiên để tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn; mô tả cuộc sống bình dị, lao động hàng ngày của buôn làng...
Ngôn ngữ hát kể của sử thi Ê đê là sự pha trộn hài hòa giữa lời nói và nhạc. Về phần lời, sử thi Ê đê thể hiện một dạng ngôn ngữ đặc biệt là lời nói theo tiết tấu (klei duê). Trong khi diễn xuất, nghệ nhân còn sử dụng các giai điệu dân ca của dân tộc mình như Ay ray, kưưt, mmun... để tạo ra nhịp điệu vừa thơ vừa nhạc. Trong cách diễn ngôn ngữ này, các câu chữ như những khớp nối nối liền các câu vần với nhau. Điều này cũng là yếu tố quan trọng giúp nghệ nhân có thể thuộc lòng cả những tác phẩm dài hàng ngàn câu.
Trong sử thi thường có những miêu tả về rừng rậm bạt ngàn, đặc biệt là cảnh buôn làng giàu có của các tù trưởng, những anh hùng nổi tiếng khắp vùng như Đăm Săn, Khing Ju... Trong tư duy của người kể, rừng rậm là nơi đi săn bắn, làm rẫy và bến nước đều hướng về hướng đông. Đây là hướng mà mỗi buổi sáng thức dậy và đi ra rẫy, họ xem đó là sự sống, sự sinh sôi, mầm mống mới nảy nở khi nhận ánh sáng từ nữ thần mặt trời mỗi ngày. Ánh sáng mặt trời là dấu hiệu của những điều tốt lành, là hy vọng trở thành hiện thực.
Ví dụ như trong sử thi Khing Ju có một đoạn kể: “Sáng hôm sau, khi mặt trời lên từ phía ngọn núi, Prong Mưng Dăng lấy nước từ bình để rửa mặt. Sau đó, ông vặn nắp bình rượu và tiếp tục uống. Càng uống bình, nước bên trong bình càng đầy, đến mức nước tràn ra ngoài”. Điều này là điều tốt lành báo hiệu cho Prong Mưng Dăng dẫn bà đỡ đẻ trở lại nhà để chào đón em gái của mình H’Ling kịp sinh con, trong khi Prong Mưng Dăng đang nắm tay H’Bia Ling Pang.
Với mọi sử thi, khi một nhân vật đi tìm ai đó và hỏi người trong làng, thường có câu trả lời khéo léo. Ví dụ, “Nhìn vào cột nhà sàn, nó cao hơn so với các ngôi nhà khác, có nhiều bành voi để treo ngoài hiên, bậc thang rộng bằng cả ba chiếc chiếu. Bậc thang rộng đến nỗi một lần có thể xuống năm chàng trai, còn các cô gái có thể xuống ba người, còn heo, chó có thể chạy vù vù dưới sân”. Câu trả lời này khiến người nghe có thể tưởng tượng về vẻ đẹp, chiều cao và rộng lớn của ngôi nhà đó so với những ngôi nhà khác trong làng. Đặc biệt, nội thất trong nhà, người kể thường tạo ra những lời mô tả hình ảnh với ngôn từ hình ảnh. Ví dụ, “Cột nhà được trang trí cẩn thận, sàn nhà trơn láng. Cột trong được chạm trổ với chỉ đỏ, còn cột ngoại được trang trí bằng chỉ vàng”. Những hình ảnh này gần như đưa người nghe đến với không gian thực tế.