Với bài soạn văn 11 Ôn tập học kì 2 ngắn gọn nhất nhưng vẫn bám sát sách Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức giúp việc soạn văn 11 trở nên dễ dàng hơn cho học sinh.
Soạn văn 11 Ôn tập học kì 2 (trang 122) - Tóm tắt Kết nối tri thức
I. Hệ thống hóa kiến thức đã học
I. Hệ thống hóa kiến thức đã học
Câu 1 (trang 122 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Sơ đồ hóa danh mục loại, thể loại văn bản đã học trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập hai. Liệt kê tiêu đề của những văn bản cụ thể thuộc các loại, thể loại ấy.
Phản hồi:
Thể loại |
Tác phẩm |
Tác giả |
Truyện thơ Nôm |
Trao duyên |
Nguyễn Du |
Độc Tiểu Thanh kí |
Nguyễn Du |
|
Chí khí anh hùng |
Nguyễn Du |
|
Thơ Đường luật |
Mộng đắc thái liên |
Nguyễn Du |
Kí |
Ai đã đặt tên cho dòng sông? |
Hoàng Phủ Ngọc Tường |
“Và tôi muốn mẹ…” |
Xvét-la-na A-lếch-xi-ê-vích |
|
Cà Mau quê xứ |
Vũ Trần Tuấn |
|
Cây diêm cuối cùng |
Cao Huy Thuần |
|
Văn bản thông tin |
Nữ phóng viên đầu tiên |
Trần Nhật Vy |
Trí thông minh nhân tạo |
Richard Wastson |
|
Ca nhạc ở miệt vườn |
Sơn Nam |
|
Hát nói |
Bài ca ngất ngưởng |
Nguyễn Công Trứ |
Văn tế |
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc |
Nguyễn Đình Chiểu |
Văn nghị luận |
Cộng đồng và cá thể |
Albert Einstein |
Làm việc cũng là làm người |
Giản Tư Trung |
Câu 2 (trang 122 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Tạo bảng phân loại các khái niệm chính được giới thiệu trong phần Kiến thức về ngôn ngữ văn học của mỗi bài học trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập hai theo các nhóm: kiến thức cơ bản về loại, thể; kiến thức về các yếu tố tạo nên văn bản thuộc từng loại, thể; kiến thức về lịch sử văn học; kiến thức ngôn ngữ tiếng Việt.
Phản hồi:
Bài |
Kiến thức cốt lõi |
|||
Về loại, thể loại văn bản |
Các yếu tố cấu thành trong văn bản |
Lịch sử văn học |
Về tiếng Việt |
|
Bài 6 – Nguyễn Du – Những điều trông thấy mà đau đớn lòng |
Truyện thơ Nôm là loại hình tác phẩm tự sự độc đáo của văn học trung đại Việt Nam, kết hợp phương thức tự sự và trữ tình, được viết bằng chữ Nôm, chủ yếu sử dụng thể thơ lục bát hoặc song thất lục bát. |
Đề tài, chủ đề của truyện thơ Nôm rất rộng mở, từ tôn giáo, lịch sử, xã hội đến cuộc sống đời thường; đặt ra nhiều vấn đề bức thiết của thời đại. Trong đó, nổi bật là cảm hứng khẳng định tình yêu tự do và cuộc đấu tranh bảo vệ hạnh phúc gia đình; tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ, tố cáo, phê phán xã hội đương thời; thể hiện khát vọng công lí, công bằng.
|
Giao lưu và sáng tạo trong văn học trung đại Việt Nam. Trong thời trung đại, Việt Nam nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng giao thoa của hai nền văn hoá lớn là Trung Hoa và Ấn Độ. Sự phát triển của văn học Việt Nam gắn liền với việc tiếp biến nhiều thành tựu văn hoá, văn học của hai nền văn hoá này để chủ động tạo nên những giá trị có tính đặc thù, thể hiện được bản sắc văn hoá, ý thức độc lập, tự cường của dân tộc. Có thể nói đến một số phương diện chính yếu của sự giao lưu và sáng tạo trên lĩnh vực văn học như: tư tưởng, ngôn ngữ – văn tự, thể loại, chất liệu thơ văn (thể tài, cốt truyện, điển cố,...). Việc giao lưu và sáng tạo trong văn học trung đại Việt Nam luôn diễn ra trên nguyên tắc lựa chọn tinh hoa, chủ động “Việt hoá” các yếu tố ngoại lai để phù hợp với bản sắc và tinh thần văn hoá dân tộc. |
Lặp cấu trúc là biện pháp tu từ sử dụng những cụm từ hoặc câu có cùng kiểu cấu trúc nhằm nhấn mạnh nội dung cần biểu đạt, tạo nhịp điệu và tăng tính nhạc cho lời văn. Đối là biện pháp tu từ sử dụng những từ ngữ (cùng từ loại) hoặc cầu (cùng cấu trúc) sóng đối với nhau nhằm nhấn mạnh sự tương đồng hoặc tương phản giữa các nội dung cần biểu đạt, tạo nhịp điệu và tăng vẻ đẹp cán xứng cho lời văn. Biện pháp tu từ đối có thể được thực hiện trong một câu thơ, câu văn hay trọn hai câu thơ, câu văn liền kề nhau. |
Bài 7 – Ghi chép và tưởng tượng trong kí |
- Kí là tên gọi một nhóm các thể/ tiểu loại tác phẩm văn xuôi phi hư cấu có khả năng dung hợp các phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thông tin,... nhằm tái hiện những trạng thái đời sống đang được xã hội quan tâm và bộc lộ trực tiếp những cảm nghĩ của tác giả. - Tuỳ bút là tiểu loại kí có tính tự do cao, có bố cục linh hoạt, thường nghiêng hẳn về tính trữ tình với điểm tựa là cái tôi của tác giả. Người viết sẽ tuỳ cảnh, tuỳ việc, tuỳ theo cảm hứng mà trình bày, nhận xét, đánh giá, suy tưởng,... - Tản văn là một tiểu loại kí thường sử dụng đồng thời cả yếu tố tự sự và trữ tình, có thể còn kết hợp nghị luận, miêu tả, nhằm thể hiện những rung cảm thẩm mĩ và quan sát tinh tế của tác giả về các đối tượng đa dạng trong đời sống. Cái tôi của tác giả luôn hiện diện rõ nét, nhưng việc triển khai những liên hệ, suy tưởng phần nào được tiết chế so với tùy bút. |
Trong tuỳ bút, tản văn, yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình luôn có sự kết hợp linh hoạt, tuỳ vào ý tưởng trung tâm được triển khai, đối tượng của sự quan sát, chiêm nghiệm và đặc điểm phong cách nghệ thuật của người viết. |
|
Một số hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường. |
Bài 8 – Cấu trúc văn bản thông tin |
Văn bản thông tin thường có những dấu hiệu nổi bật về hình thức thể hiện qua nhan đề, đề mục, sơ đồ, bảng biểu, chữ in nghiêng, chữ in đậm,... Những dấu hiệu này giúp cho người đọc nắm bắt thông tin chính của văn bản một cách nhanh chóng. |
- Bố cục, mạch lạc của văn bản thông tin Nội dung của văn bản thông tin được tạo thành bởi các yếu tố chính: chủ đề, các ý chính và ý phụ. - Cách trình bày dữ liệu trong văn bản thông tin Có một số mô hình tổ chức thông tin chính: tổ chức thông tin theo trật tự thời gian, theo trật tự nhân quả, theo tầm quan trọng của vấn đề, theo quan hệ so sánh hoặc tương phản. |
|
Sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ |
Bài 9 – Lựa chọn và hành động |
|
Văn bản văn học có nhiều chủ đề Thực tế văn học cho thấy, không hiếm văn bản cùng lúc thể hiện nhiều chủ đề và các chủ đề này được phân loại theo những tiêu chí khác nhau.
|
|
Một số cách giải thích nghĩa của từ Có nhiều cách giải thích nghĩa của từ tuỳ vào ngữ cảnh cụ thể và vào đặc điểm, tính chất của từ được giải thích (từ vay mượn, từ địa phương, từ cổ,...). Sau đây là một số cách cơ bản và thông dụng: - Giải thích bằng hình thức trực quan: chỉ vào sự vật hay hiện tượng tồn tại trong thực tế vốn được gọi tên bằng từ đó (cũng có thể chỉ vào hình ảnh đại diện của sự vật được ghi nhận bằng các phương tiện phi ngôn ngữ như tranh, ảnh,...). - Giải thích bằng cách trình bày khái niệm mà từ biểu thị. Theo cách này, không chỉ nghĩa của các từ chỉ sự vật, hiện tượng quan sát được mà cả nghĩa của những từ biểu thị trạng thái tinh thần hay kết quả hoạt động tư duy của con người đều có thể được làm sáng tỏ. - Giải thích bằng cách nêu lên từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa với từ cần giải thích, theo quy ước ngầm rằng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa đó đã được người tiếp nhận biết đến. - Giải thích bằng cách làm rõ nghĩa từng yếu tố trogn từ được giải thích (đối với đa số từ ghép), sau đó nêu nghĩa chung của từ. |
Câu 3 (trang 122 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Đưa ra nhận xét về Bài 6 (Nguyễn Du - “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”) so sánh với Bài 6 (Nguyễn Trãi - “Dành còn để trợ dân này”) ở sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập hai nhằm nhận diện các đặc điểm và yêu cầu riêng của loại hình nghiên cứu về tác giả văn học.
Phản hồi:
Bài 6 (Nguyễn Du - 'Những điều trông thấy mà đau đớn lòng') so sánh với Bài 6 (Nguyễn Trãi - 'Dành còn để trợ dân này') ở sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập hai, chúng ta có thể nhận thấy rằng, bên cạnh văn bản giới thiệu tác giả làm nổi bật các thành tựu văn học của họ, những văn bản này có thể thuộc các loại, thể văn bản khác nhau. Thông thường, các tác giả là những nhân vật lớn trong văn học dân tộc ở một thời điểm cụ thể, do đó, thông qua việc nghiên cứu về tác giả, người học có thể hiểu sâu hơn về quá trình phát triển văn học dân tộc, từ đó có thể tìm hiểu thêm về các tác phẩm và nghiên cứu của tác giả khác.
Câu 4 (trang 122 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Đánh giá ý nghĩa của các hoạt động thực hành ngôn ngữ Việt trong việc hỗ trợ hoạt động đọc văn bản ở sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập hai.
Phản hồi:
- Trong Bài 6, việc thực hành nhận biết về các biện pháp tu từ lặp cấu trúc và tu từ phép đối sẽ giúp độc giả hiểu sâu hơn về vẻ đẹp, về mặt nghệ thuật của tác phẩm Truyện Kiều - tác phẩm mà trong đó, hai biện pháp tu từ này được Nguyễn Du sử dụng thường xuyên, độc đáo. Đồng thời, qua đó, kiến thức của người học về các biện pháp tu từ trong thơ cũng được mở rộng.
- Trong Bài 8, việc sử dụng các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ, như trong Bài Phóng viên nữ đầu tiên sử dụng hình ảnh, Bài Trí thông minh nhân tạo sử dụng biểu đồ, Bài Pa-ra-lim-pích (Paralypic) Một lịch sử chữa lành những vết thương sử dụng hình ảnh, được trình bày một cách trực quan, ngắn gọn và có sự phối hợp giữa màu sắc, hình ảnh và biểu tượng, sẽ làm tăng sự thu hút, lôi cuốn của văn bản với độc giả.
- Trong Bài 9, việc giải nghĩa các từ theo các phương pháp khác nhau tùy thuộc vào ngữ cảnh cụ thể, đặc điểm và tính chất của từ được giải thích (như từ vựa mượn, từ địa phương, từ cổ,...) nhằm làm rõ ý nghĩa của từ, giúp độc giả hiểu ý của người viết trong tác phẩm văn học.
Câu 5 (trang 122 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Liệt kê các loại bài viết và yêu cầu của từng loại bài đã được thực hành trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập hai.
Phản hồi:
Kiểu bài |
Yêu cầu |
Viết văn bản thuyết minh về một tác phẩm văn học |
- Giới thiệu được tác phẩm cần thuyết minh (nhan đề, tên tác giả, đánh giá chung). - Giới thiệu khái quát về tác giả. - Nêu được hoàn cảnh sáng tác, đặc điểm thể loại; tóm tắt được nội dung tác phẩm. - Nêu thông tin cơ bản về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. - Khẳng định vị trí, đóng góp của tác phẩm đối với đời sống văn học. - Có lồng ghép các yếu tố miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận. |
Viết văn bản thuyết minh về một sự vật, hiện tượng trong đời sống xã hội |
- Nêu rõ hiện tượng xã hội được thuyết minh và cung cấp một số thông tin cơ bản giúp người đọc hình dung bước đầu về hiện tượng. - Làm sáng tỏ nguyên nhân của hiện tượng, tác động tích cực hoặc tiêu cực của hiện tượng đối với đời sống, nêu được giải pháp phát huy hiện tượng tích cực hoặc khắc phục hiện tượng tiêu cực. - Rút ra ý nghĩa của việc thuyết minh hiện tượng hoặc tác dụng của các giải pháp được đề xuất. - Sử dụng kết hợp trong văn bản thuyết minh một hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm hoặc nghị luận. |
Viết văn bản thuyết minh về một sự vật, hiện tượng trong tự nhiên |
- Nêu rõ vấn đề xã hội được thuyết minh và cung cấp một số thông tin cơ bản, nổi bật về vấn đề đó. - Làm sáng tỏ các biểu hiện hay phạm vi ảnh hưởng của vấn đề đối với đời sống xã hội hoặc cung cấp thông tin theo trình tự khác phù hợp với vấn đề được thuyết minh. - Rút ra được ý nghĩa của việc nhận thức đúng vấn đề thuyết minh. - Sử dụng kết hợp trong văn bản thuyết minh một hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận. |
Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm nghệ thuật |
- Nêu được thông tin khái quát về tác phẩm nghệ thuật sẽ bàn tới trong bài viết. - Xác định rõ nội dung và hệ thống luận điểm sẽ triển khai, miêu tả chung về tác phẩm bằng ngôn ngữ phù hợp với loại hình nghệ thuật của nó; phân tích tác phẩm trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật; đánh giá tổng quát; gợi ý về cách tiếp cận phù hợp với tác phẩm;... - Phối hợp linh hoạt giữa việc trình bày lí lẽ và nêu bằng chứng cụ thể. - Thể hiện được sự rung động trước tác phẩm và sự đồng cảm đối với tác giả. |
Câu 6 (trang 122 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Danh sách các hoạt động trong phần Nói và nghe được thực hiện trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập hai và giải thích ý nghĩa của từng hoạt động đó.
Phản hồi:
Hoạt động nói - nghe |
Ý nghĩa |
Giới thiệu về một tác phẩm văn học |
- Nêu rõ lí do lựa chọn, giới thiệu tác phẩm văn học. - Cung cấp thông tin cơ bản về tác phẩm văn học: tác giả, thể loại, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật. - Giới thiệu kĩ một vài khía cạnh đặc sắc của tác phẩm từ góc nhìn cá nhân. - Thể hiện được ý kiến, quan điểm đánh giá của cá nhân về tác phẩm. |
Thảo luận, tranh luận về một vấn đề trong đời sống |
- Xác định được vấn đề cần thảo luận, tranh luận - Đưa ra được ý kiến, quan điểm của cá nhân khi tham gia thảo luận về vấn đề. - Biết tranh luận với các ý kiến, quan điểm khác để bảo vệ ý kiến, quan điểm của mình. - Tôn trọng người đối thoại, có tinh thần cầu thị, lắng nghe; biết chấp nhận những ý kiến, quan điểm hợp lí, xác đáng. |
Tranh biện về một vấn đề trong đời sống |
- Nêu được rõ ràng quan điểm (tán thành hay phản đối) về vấn đề tranh biện. - Đưa ra được các lí lẽ, bằng chứng thuyết phục để khẳng định quan điểm của mình và phản bác quan điểm của phía đối lập. - Thể hiện được sự tương tác tích cực trong nhóm để phát triển ý tương và luận điểm; biết lắng nghe và tôn trọng người tranh biện với mình. - Sử dụng giọng nói, ngữ điệu và ngôn ngữ cơ thể phù hợp. |
Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật |
- Nêu được những thông tin chính xác về tác phẩm. - Nói rõ lí do giới thiệu tác phẩm. - Trình bày được những cảm nhận, đánh giá của người nói về giá trị tác phẩm với những dẫn giải thuyết phục. - Nêu được những đề xuất có ý nghĩa đối với việc hình thành và phát triển năng lực thưởng thức, cảm thụ nghệ thuật của người xem, người nghe. |
1. Đọc
* Gợi ý trả lời câu hỏi sau khi đọc:
Câu 1 (trang 124 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Phân tích ý tưởng chính mà nhà thơ Uýt-xla-oa Dim-bo-xca muốn truyền đạt qua đoạn trích. Ý tưởng này liên quan đến từ khóa nào?
Phản hồi:
- Trong đoạn trích, nhà thơ Uýt-xla-oa Dim-bo-xca muốn thể hiện ý tưởng về việc không ngừng sáng tạo trong một thế giới rộng lớn, đầy những bí ẩn, luôn khám phá và không ngừng tìm kiếm câu trả lời, không chấp nhận sự mãn nguyện với những câu trả lời đã biết.
- Ý tưởng này liên quan đến từ khóa: “tôi không biết”.
Câu 2 (trang 124 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Nêu một số cụm từ được tác giả đề cập trong đoạn trích mà bạn cảm thấy có ý nghĩa giống với câu 'tôi không biết'.
Phản hồi:
Trong đoạn trích, có một số cụm từ mà tác giả sử dụng có ý nghĩa tương đương với câu 'tôi không biết': cố gắng tìm kiếm câu trả lời qua mỗi tác phẩm của mình; cảm thấy nghi ngờ; không hài lòng với bản thân,...
Câu 3 (trang 124 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Theo tác giả, việc tự nhận ra rằng 'tôi không biết' mang ý nghĩa gì đối với cuộc sống cá nhân và xã hội? Bạn đánh giá thế nào về những bằng chứng mà tác giả đưa ra để minh chứng cho quan điểm của mình?
Phản hồi:
- Việc tự nhận ra rằng “tôi không biết” luôn là động lực mạnh mẽ, khuyến khích mỗi cá nhân và cả xã hội không ngừng khám phá, hiểu biết thêm về thế giới, từ đó có những khám phá mới, sáng tạo mang lại sự hiểu biết và hạnh phúc cho con người.
- Tác giả đã đưa ra những bằng chứng rất thuyết phục, được biết đến bởi nhiều người, nhưng không phải ai cũng nhận thức được giá trị của chúng.
Câu 4 (trang 124 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Hãy đưa ra một ví dụ liên quan đến lĩnh vực sáng tạo thơ để minh họa cho vấn đề được tác giả đề cập trong đoạn 2.
Phản hồi:
Cũng giống như nhà thơ, nếu là một nhà thơ thực thụ, ta phải luôn nhắc mình rằng “tôi không biết”. Hãy cố gắng tìm kiếm câu trả lời qua từng tác phẩm của mình. Tuy nhiên, ngay khi đặt dấu chấm, ta lại cảm thấy nghi ngờ. Nhận ra rằng đó chỉ là một câu trả lời tạm thời và hoàn toàn chưa đủ.
Câu 5 (trang 124 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Phân tích mạch lạc và sự liên kết của đoạn văn.
Phản hồi:
Mạch lạc và sự liên kết trong đoạn văn được thể hiện thông qua việc lặp lại một số từ ngữ, cụm từ, sử dụng các từ nối hoặc các câu có chức năng kết nối các ý.
Câu 6 (trang 124 sgk Ngữ văn 11 Tập 2): Viết một đoạn văn (khoảng 200 từ) diễn đạt suy nghĩ của bạn về quá trình sáng tạo của nhà thơ cũng như của các nghệ sĩ nói chung dựa trên những gợi ý trong đoạn văn trích.
Phản hồi:
Sự sáng tạo của con người là không ngừng, và điều thúc đẩy nó là một ẩn số lớn. Theo như nhà thơ Uýt-xla-oa Dim-bo-xca, điều này bắt nguồn từ câu nói “tôi không biết”. Khi chúng ta, những người nghệ sĩ, tìm thấy những chủ đề thú vị và sâu sắc, chúng ta sẽ sáng tác về chúng. Từ những suy nghĩ đó, chúng ta tạo ra những tác phẩm đầy cảm xúc, truyền cảm hứng cho người khác. Cuộc sống thông qua lăng kính nghệ thuật trở nên đẹp đẽ và ý nghĩa, và nó thường được biểu lộ qua những tác phẩm của chúng ta.
2. Viết
Chọn một trong các đề sau:
Đề 1.
Hãy tạo ra một văn bản thuyết minh sử dụng các phương tiện phi ngôn ngữ để giới thiệu một tác phẩm văn học mà bạn cho là nổi bật.
Đề 2.
Vấn đề xã hội bạn quan tâm nhất hiện nay là gì? Viết một bài thuyết minh về chủ đề đó.
Đề 3.
Ở mỗi người, nhu cầu khám phá vẻ đẹp của nghệ thuật thường bắt nguồn từ cuộc gặp gỡ bất ngờ với một tác phẩm cụ thể. Với bạn, tác phẩm nào đã làm điều này? Hãy viết về nó.
Bài viết tham khảo
Đề 1
Thuyết minh về tác phẩm “Cảnh ngày hè” (Bảo kính cảnh giới - Bài 43) - Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi, một trong những nhà văn vĩ đại của dân tộc, là một biểu tượng văn hóa của thế giới. Bài thơ “Cảnh ngày hè” không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, mà còn là một bức tranh tinh thần tuyệt vời về tác giả.
Bắt đầu bài thơ 'Cảnh ngày hè' là sáu câu thơ tả cảnh ngày hè:
“Rồi hòa mát bên hồ trường”
Tranh lục đọng đọng tán rợp lá
Thạch lựu hiên phun sương đỏ
Hồng liên trì đã ngợi hương thơm
Ồn ào chợ cá làng Ngư phủ
Dắng dặc ve râm tre tịch mây”
Tác giả đã tận hưởng cảnh ngày hè trong tư thế thoải mái nhất khi ở trong sự ẩn náu, khi không còn áp lực từ triều đình. Bức tranh cảnh ngày hè được minh họa với sự tươi sáng và rực rỡ, với đủ màu sắc: màu xanh của cây hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, và màu vàng rực rỡ của ánh nắng chiều. Tất cả kết hợp lại với nhau, tạo nên bức tranh mùa hè đặc trưng. Không chỉ cảm nhận bằng thị giác, Nguyễn Trãi còn nhận thức cảnh vật qua thính giác, khướu giác và tâm hồn của một nghệ sĩ. Ông cảm nhận mùi của hoa sen, nghe âm thanh 'lao xao' từ làng chài, và 'dắng dỏi' của tiếng ve. Bức tranh cảnh ngày hè trở nên sống động và đặc biệt hơn với âm thanh và hương vị. Mặc dù tác giả miêu tả khung cảnh là vào cuối ngày, khi mặt trời lặn, nhưng mọi sự vẫn tràn đầy sức sống với từ ngữ như 'đọng đọng', 'tán rợp', 'phun', 'tiễn', 'lao xao', 'dắng dỏi'. Những từ ngữ này cũng phản ánh những suy tư trong tâm hồn tác giả - ước mong được đóng góp cho nhân dân, cho đất nước. Tinh thần đó như muốn bùng cháy, lan toả khắp mọi nơi. Trong sáu câu thơ này, tác giả không tuân theo các quy tắc của văn học phong kiến nữa. Ông miêu tả cảnh ngày hè với những sự vật thân thuộc với cuộc sống hàng ngày.
Hai câu cuối của bài thơ là nơi Nguyễn Trãi truyền đạt tâm trạng và tư tưởng của mình:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Mặc dù tác giả thưởng thức cảnh ngày hè trong một ngày nghỉ, nhưng ông vẫn luôn lo lắng, suy nghĩ cho nhân dân, cho đất nước. Ông cảm nhận cảnh ngày hè nhưng vẫn quan tâm đến cuộc sống của nhân dân. Vì vậy, ông nghe thấy âm thanh sôi động, 'lao xao' từ làng chài. Ông quan tâm đến nhân dân, lo cho dân cho nước. Vì vậy, ông mong muốn có cây đàn của vua Ngu Thuấn. Với cây đàn đó, Nguyễn Trãi hy vọng mang đến cuộc sống hạnh phúc, sung túc cho nhân dân và đất nước.
Bài thơ “Cảnh ngày hè” viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường, nhưng không theo bố cục: Đề - Thực - Luận - Kết của thể thơ Đường. Vì vậy, bài thơ mang nét riêng của một nhà thơ vĩ đại của Việt Nam. Ngoài ra, hình ảnh hoa lựu trong bài thơ khiến ta nhớ đến hai câu thơ của Nguyễn Du:
“Đầu tường hoa lựu lập lòe đơm bông”
Nguyễn Du sử dụng hình ảnh mạnh mẽ trong các câu thơ của mình, trong khi Nguyễn Trãi thể hiện sự nhiệt huyết riêng. Điều này làm nổi bật tài năng văn chương của Nguyễn Trãi.
Bài thơ “Cảnh ngày hè” không chỉ nổi bật về mặt nội dung và nghệ thuật, mà còn phản ánh tâm hồn đẹp của Nguyễn Trãi. Ông yêu thiên nhiên và quê hương, nhưng hơn hết, ông là người có tài và tâm hồn, luôn lo lắng cho nhân dân và đất nước. Ông mong muốn dùng nhiệt huyết của mình để làm cho nhân dân hạnh phúc, đất nước giàu mạnh. Tư tưởng của Nguyễn Trãi là một bài học dành cho thế hệ trẻ về lòng yêu nước và sự cống hiến.
Đề 2
Thuyết minh về tầm quan trọng của việc học tập trong xã hội hiện nay
Từ xưa đến nay, giáo dục luôn là lĩnh vực được quan tâm hàng đầu. Từ các triều đại phong kiến cho đến thời hiện đại, giáo dục luôn là yếu tố chủ chốt trong sự phát triển của một quốc gia và luôn kết hợp với việc học. Vì thế, lời khuyên “Học, học nữa, học mãi” của Lê-nin vẫn còn hiện hữu và quan trọng ngày nay.
Học ở đây có thể hiểu là việc tiếp thu kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau, thường chỉ đến những kiến thức tích cực và mang ý nghĩa nhân văn, góp phần vào sự phát triển của xã hội. Chúng ta có thể học từ thầy cô giáo, từ bạn bè, từ những người đi trước, từ sách báo, từ video... Kiến thức hiện diện ở mọi nơi và đòi hỏi chúng ta biết học một cách đúng đắn và hiệu quả. “Học nữa, học mãi” ở đây có thể hiểu là việc học diễn ra liên tục, kiên trì, bền bỉ, trải suốt cuộc đời. Không chỉ trẻ nhỏ mà cả người lớn cũng cần học hỏi để mở rộng kiến thức. Kiến thức là một vũ trụ mở cửa và chúng ta phải tận dụng nó. Bên trong đó, lời khuyên quan trọng nhất là hãy luôn học hỏi, phát triển bản thân để trở nên tốt hơn, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào.
Vậy việc học như vậy sẽ mang lại lợi ích gì cho chúng ta? Đầu tiên, đối với bản thân chúng ta. Như chúng ta đã biết, trình độ văn hóa thường được coi là tiêu chí để đánh giá phẩm chất của con người trong xã hội, hay như từ chúng ta thường nghe là “có học” và “không có học”. “Có học” ở đây là chỉ những người có trình độ cao, có thể là thạc sĩ, tiến sĩ, và được coi là tinh hoa của xã hội. “Không có học” ở đây là chỉ những người không có trình độ, hoặc học xong cấp trung học phổ thông rồi đi làm mà không tiếp tục học. Rõ ràng, những người “có học” sẽ được xã hội tôn trọng và coi trọng hơn. Trình độ văn hóa không chỉ thể hiện cá nhân mà còn giúp mỗi người đạt được kiến thức, kinh nghiệm để tìm kiếm cơ hội việc làm tốt, nhận được sự tôn trọng của mọi người xung quanh và luôn được ưu tiên trong một số trường hợp như điều kiện làm việc, đối xử... Đối với xã hội, sự phát triển của nó phụ thuộc vào trình độ học vấn. Một xã hội gồm những người có trình độ học vấn, làm việc, cư xử... không chỉ thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ mà còn tạo ra môi trường thuận lợi để con người bộc lộ tài năng, cống hiến cho sự phát triển của xã hội. Đó là lợi ích lớn nhất của việc học.
Tuy nhiên, trong cuộc sống chúng ta thường gặp những người không muốn học hỏi, nâng cao nhận thức và hoàn thiện bản thân mà luôn ép buộc suy nghĩ của mình lên người khác, luôn cho rằng mình là đúng. Những người như vậy đáng lẽ phải bị chỉ trích. Hoặc có một phần khác, họ không muốn học và làm việc mà chỉ muốn sống ăn chơi và dần dần lạc vào những tệ nạn xã hội, gây ra những hậu quả đau lòng.
Vì vậy, mỗi người chúng ta phải luôn học hỏi, rèn luyện để hoàn thiện bản thân, điều này không chỉ giúp tăng kiến thức của chúng ta mà còn giúp chúng ta giữ vững bản tính và lý tưởng của mình, tránh xa khỏi sự cám dỗ và những thói quen tiêu cực. Đặc biệt với các bạn học sinh, chúng ta cần luôn học tập, rèn luyện để trở nên tốt hơn, có trách nhiệm với gia đình, xã hội và quốc gia. Phải luôn cố gắng phát triển bản thân để trở thành một người có ích cho xã hội, xứng đáng với lời dạy của Lê-nin.
Đề 3
Viết về bức tranh Người phụ nữ điên cuồng điều khiển cỗ xe tình yêu (Folly Driving the Chariot of Love)
Những bức tranh cổ điển không chỉ chứa đựng những câu chuyện huyền bí, kinh thánh mà còn mang nhiều ý nghĩa sâu xa, để cho người xem tự đánh giá với các ý tưởng khác nhau. Đó là giá trị sâu sắc và phong phú của nhiều kiệt tác hội họa cổ điển. Trong số đó, không thể không nhắc đến tác phẩm 'Người phụ nữ điên cuồng điều khiển cỗ xe tình yêu (Folly Driving the Chariot of Love)'.
Giuseppe Bezzuoli (1784-1855) là một hoạ sĩ nổi tiếng của trường phái lãng mạn ở Ý trong thế kỷ 19. Mỗi con người đều cần có tình yêu, nhưng điều gì sẽ xảy ra khi tình yêu trở nên điên cuồng, mất lý trí? Ai cũng có thể mắc phải lỗi lầm khi say mê tình yêu, và khi chúng ta 'yêu điên cuồng', rủi ro gì đang chờ đợi?
Marchese Carlo Gerini, người đã đặt Giuseppe Bezzuoli (1784-1855) vẽ bức tranh “Người phụ nữ điên cuồng điều khiển cỗ xe tình yêu” trên trần cung điện của mình ở Florence vào mùa xuân năm 1848, có lẽ cũng đã suy nghĩ về những điều đó.
Để giải thích lý do xuất hiện bức tranh này, Furio Rinaldi, một chuyên gia về tranh cổ tại nhà đấu giá Christie's ở New York, đã đoán: “Bức tranh có thể đã được vẽ trong dịp một đám cưới”. “Người phụ nữ điên cuồng điều khiển cỗ xe tình yêu”, được vẽ năm 1848 bởi Giuseppe Bezzuoli (1784-1855). Vật liệu: Than chì, màu lót xám, được làm nổi bằng màu thân xe trắng, trên bốn tờ giấy nâu sáng, kích thước 135 3/4 inch x 189 1/2 inch. (Bản quyền: nhà đấu giá Christie’s).
Vậy ngụ ngôn mà bức tranh này muốn truyền đạt là gì?
Đầu tiên, hãy nhìn vào các chi tiết của bức tranh. Bức tranh mô tả vị thần tình yêu La Mã, hay còn được biết đến là Cupid, đeo chiếc ống tên đặc trưng của mình, nhưng không có mũi tên nào được bắn ra. Chàng cầm cây cung, nhưng không có dây cung. Những phần thiếu trong các vật dụng của chàng có thể ngụ ý rằng vì thiếu chúng nên chàng chưa thể đạt được mục tiêu. Chàng ngồi đó với vẻ hờ hững, không bị xáo trộn bởi cỗ xe tình yêu được một người phụ nữ điên cuồng điều khiển. Với vẻ điên cuồng phản ánh trong ánh mắt, người phụ nữ đứng phía trước của cỗ xe ngựa tình yêu, vung roi mạnh mẽ và nắm dây cương. Nửa thân trên trần, với mái tóc tung bay trong gió, cô kéo lùi bốn con ngựa khiến chúng hoảng sợ, dường như cô không phải là chủ nhân của chúng và của chiếc xe này.
Ngược lại với cô gái, Cupid, hoặc Thần tình yêu, giữ một vẻ bình thản, khi cỗ xe đưa chàng lướt qua những đám mây. Chàng nhìn lên thiên sứ với ánh mắt buồn, xung quanh đầu chàng lấp lánh. Chàng theo dõi một thiên sứ nhỏ bay với một chiếc vòng trên tay. Đại diện cho sự ngây thơ, thiên sứ nhỏ luôn bay gần Thần tình yêu, ở bên chàng, bảo vệ chàng, đối lập với sự điên rồ của người phụ nữ và những chú ngựa hoảng loạn.
Bức tranh ngụ ý sự tương phản giữa một tình yêu thuần khiết, bình thản và lý trí, với một ham muốn điên cuồng không kiểm soát?
Nó cho phép người xem dễ dàng hình dung hậu quả của các lựa chọn khác nhau trong tình yêu: hoặc kiểm soát ý thức, mang lại trách nhiệm, sự cân bằng và hiểu biết, hoặc buông tha không kiểm soát, gây ra điên rồ và nguy hiểm.
Nhưng bức tranh có thể không chỉ là minh họa cho sự tương phản này. Nó có thể mang một thông điệp của Thần đối với con người: Con người có thể luôn lạc lối trong những ham muốn điên rồ mất kiểm soát, gây ra hậu quả nguy hiểm, nhưng vẫn có Thần đang theo dõi, hy vọng con người tỉnh dậy khỏi cơn mê, không bị cuốn đi bởi dục vọng. Dù sao, vẫn còn hy vọng cho con người. Mặc dù người phụ nữ điên cuồng điều khiển cỗ xe ngựa một cách mất kiểm soát, nhưng ta vẫn cảm nhận được rằng, Thần tình yêu và thiên sứ nhỏ vẫn luôn đi cùng, bảo vệ nàng và những chú ngựa hoảng sợ...
Một góc nhìn tuyệt vời khác về những ý nghĩa ngụ ngôn trong bức tranh này là cách sắp xếp các chi tiết tư duy đối lập, ở nhiều mức độ khác nhau. Khi nhìn vào bức tranh này, mỗi người có thể rút ra những bài học hay câu chuyện riêng của mình, tùy thuộc vào tâm trạng của họ, dẫn đến sự hiểu biết khác nhau. Trong một cuộc phỏng vấn tại nhà đấu giá Christie's tại Rockefeller Center, Rinaldi nói: “Điều tôi thực sự thích ở nhân vật Cupid là, chàng là Thần chống lại bóng tối, và với vẻ đẹp của chàng tỏa sáng, chàng thực sự rất đẹp.”
Ai chưa từng suy nghĩ về những cuộc đối đầu giữa tình yêu và tính ích kỷ, hoặc giữa lý trí và đam mê? Ý nghĩa sâu sắc của bức tranh “Người phụ nữ điên cuồng điều khiển cỗ xe tình yêu” là một lời nhắc nhở lớn cho con người: Đừng để đam mê và tham vọng mù mịt trong tình yêu dẫn lối ta vào nguy hiểm.
Bức tranh khổng lồ và hiếm này đã tạo ra một sân khấu cho ý kiến phản hồi từ nhiều chuyên gia, thông qua một hình thức nghệ thuật ẩn dụ quý giá nhất – một câu chuyện ngụ ngôn dành cho con người.
3. Nói và Nghe
Chọn thực hiện theo nhóm học tập một trong các nội dung sau:
Nội dung 1.
Thuyết trình về một tác phẩm văn học được khuyến nghị đọc ở phần Củng cố, mở rộng của mỗi bài học.
Nội dung 2.
Trình bày một bài thuyết minh về một vấn đề xã hội mà bạn chọn (có thể dựa trên bài viết của bạn về vấn đề này, nếu có).
Nội dung 3.
Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật đã khiến bạn suy nghĩ nhiều về việc lựa chọn và hành động trong cuộc sống.
Bài nói tham khảo
Nội dung 1
Thuyết trình về bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu
Xin chào quý thầy cô và các bạn. Tôi là...... học sinh lớp......... Hôm nay, tôi sẽ thuyết trình giới thiệu về bài thơ “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu.
Có người đã nói rằng, Thơ Mới như một cành nấm lạ trên cây văn học hiện đại của Việt Nam. Thật vậy, xuất hiện vào giai đoạn 1932 – 1945, Thơ Mới thực sự đã mang lại một luồng gió mới cho văn học, và nếu như không nhắc đến ông hoàng thơ tình Xuân Diệu, đó sẽ là một thiếu sót lớn. Xuân Diệu đã mặc chiếc áo mới và bước vào làng thơ Việt Nam với tác phẩm “Vội vàng”, mang đến cho văn chương một nguồn cảm xúc phong phú.
“Vội vàng” được xuất bản trong tập “Thơ thơ” (1933 – 1938), ra mắt năm 1938 – thời kỳ trước Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945, khi dân tộc còn chịu sự thống trị của thực dân Pháp. Đó là một bối cảnh lịch sử phức tạp, khi tâm trí cá nhân của những người sáng tác đang tỉnh giấc, nhưng lại gặp phải cảnh mất nước mất nhà, họ không thể tỏ bày mình tự do, vì vậy thơ Mới trong giai đoạn này thấm đượm nỗi buồn với nhiều tầng lớp khác nhau. Ngay cả thi sĩ Xuân Diệu của chúng ta, một người nổi tiếng với những bản tình ca lãng mạn, với niềm đam mê và khao khát giao cảm với cuộc sống, cũng không thể che giấu nổi nỗi buồn sâu thẳm hoặc nỗi lo âu về thời gian, về tuổi trẻ. “Vội vàng” là bài thơ mà ông biểu lộ rõ nhất cảm hứng đó. Toàn bộ bài thơ được thấu hiểu bởi trạng thái say đắm đến mê muội, một mong muốn giao cảm với cuộc sống mãnh liệt, sau đó là những niềm tin về con người hoàn toàn mới mẻ. Cái tôi của nhà thơ đã ẩn chứa trong từng câu, biến bài thơ thành một trong những tác phẩm thơ hay nhất trong phong trào Thơ Mới. Bài thơ theo dạng thơ tự do, được chia thành 3 phần: phần đầu với 11 câu thơ diễn tả tình yêu mạnh mẽ, mãnh liệt của nhà thơ với thiên nhiên và cuộc sống, phần thứ hai với 18 câu thơ tiếp theo đưa người đọc trở lại với nỗi lo âu, những suy tư về thời gian và tuổi trẻ trôi qua quá nhanh, phần cuối với các câu thơ còn lại biểu hiện mong muốn sống, mong muốn yêu đương mãnh liệt. Thơ tự do giúp tác giả dễ dàng thể hiện những cảm xúc riêng tư của mình.
Toàn bộ bài thơ là sự tôn vinh cuộc sống, tình yêu đời sâu sắc và có người từng cho rằng Xuân Diệu đã xây dựng lên một lầu thơ trên mặt đất. Những câu thơ đầy tình yêu nồng nàn như mở ra trái tim của người đọc vào thế giới thơ lãng mạn của vị hoàng thơ tình:
“Ong bướm kia đây, nồng nàn mật ngọt
Hoa kia đây, màu xanh non nơi sân vườn
Và lá kia đây, mềm mại phơi phới trong gió
Của yến này đây, dòng tình ngọt ngào...”
Khác với các nhà Thơ mới khác, họ không thể tìm thấy sự kết nối với cuộc sống nên phải bay lên thiên đường, phiêu lưu trong thế giới tưởng tượng, tìm kiếm “một thiên đường băng giá” hoặc “một vì sao lạc lõng giữa bầu trời xanh”, Xuân Diệu lại tìm thấy vẻ đẹp trong đời sống hàng ngày, trong thế giới hiện thực để kết nối, để thể hiện tình cảm tự nhiên. Tuy nhiên, do quá mê mẩn vẻ đẹp đó mà ông cũng băn khoăn về thời gian trôi qua nhanh chóng đến không ngờ:
“Nói làm gì rằng xuân vẫn quay trở lại
Nhưng tuổi trẻ không bao giờ quay lại hai lần
Và thế giới này không bao giờ còn mãi mãi thuộc về tôi
Cho nên tôi hối tiếc cả trời đất”
Người xưa coi thời gian tuần hoàn, nhưng ở đây Xuân Diệu đã đưa ra một quan điểm mới mẻ: thời gian chỉ đi một chiều và vì vậy, ông hối tiếc về tuổi trẻ của mình, tiếc về những vẻ đẹp sẽ phai mờ theo thời gian. Các đóng góp sáng tạo của Xuân Diệu đã giúp ông có một vị thế vững chắc, xứng đáng là ông hoàng của thơ Việt Nam vào thời điểm đó.
Về mặt nghệ thuật, bài thơ cũng đã đạt được một số thành tựu nghệ thuật đặc biệt. Một trong những điểm đáng chú ý nhất chính là việc sử dụng ngôn từ và tạo hình ảnh thơ. Cụ thể nhất có lẽ là việc sử dụng các từ tượng trưng như “xanh rì, cành tơ,...” để làm nổi bật vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của thiên nhiên. Các hình ảnh được sử dụng rất tinh tế, đặc biệt là hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi”, ánh sáng như một cú nháy mắt đa tình của cô gái, tôn lên vẻ đẹp dịu dàng, lôi cuốn của thiên nhiên vào mùa xuân.
Tóm lại, với một tâm hồn thơ đa cảm, một tài năng nghệ thuật xuất sắc, Xuân Diệu đã góp phần vào văn học hiện đại Việt Nam một tác phẩm thơ được xem là tuyệt vời. “Vội vàng” đã trở thành một trong những bài thơ bất hủ, là biểu tượng của nền văn chương Việt Nam.
Phần giới thiệu về bài thơ “Vội vàng” của nhà thơ Xuân Diệu của tôi kết thúc ở đây. Xin cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Rất mong nhận được sự đóng góp để nội dung trình bày trở nên hoàn thiện hơn.
Nội dung 2
Thuyết trình về vấn đề: Tầm quan trọng của việc học trong xã hội ngày nay.
Xin chào thầy cô và các bạn. Tôi tên là......, là một học sinh ở lớp....... Hôm nay, tôi sẽ trình bày về một vấn đề rất quan trọng trong xã hội hiện nay, đó là tầm quan trọng của việc học.
Từ xưa đến nay, giáo dục luôn là một lĩnh vực được quan tâm hàng đầu. Từ thời kỳ cổ xưa cho đến hiện nay, việc giáo dục con người luôn được coi là yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển quốc gia và nó luôn đi đôi với việc học. Do đó, lời khuyên của Lê-nin “Học, học nữa, học mãi” vẫn giữ nguyên giá trị ngay cả trong cuộc sống hiện đại.
Trong việc học, chúng ta tiếp thu kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau, nhằm đóng góp vào sự phát triển xã hội. Chúng ta có thể học từ giáo viên, bạn bè, sách vở, báo chí, video... Học không chỉ là quá trình ngắn hạn mà còn là hành trình lâu dài, kiên nhẫn và không ngừng suốt cuộc đời.
Việc học mang lại lợi ích lớn đối với bản thân và xã hội. Trình độ văn hóa là thước đo quan trọng của mỗi cá nhân và ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của xã hội. Trình độ văn hóa không chỉ phản ánh con người mà còn giúp mỗi cá nhân có cơ hội tốt hơn trong công việc và đời sống.
Tuy nhiên, vẫn có những người không chịu học hỏi, luôn tự cho mình là đúng và không muốn tiếp thu ý kiến của người khác. Điều này góp phần vào những hậu quả xấu trong xã hội.
Do đó, chúng ta cần phải luôn học hỏi, tự hoàn thiện bản thân để giữ vững bản tính và lý tưởng của mình. Đặc biệt, học sinh cần phải rèn luyện bản thân để trở thành người có ích cho xã hội và đất nước.
Đó là phần trình bày về tầm quan trọng của việc học trong xã hội hiện nay. Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Mong nhận được ý kiến đóng góp để bài trình bày được hoàn thiện hơn.
Nội dung 3
Thuyết minh về bức tranh Sự dai dẳng của kí ức của họa sĩ Salvador Dali
Xin chào thầy cô và các bạn học sinh, tôi là......, học sinh lớp.......Hôm nay, tôi sẽ giới thiệu về một tác phẩm nghệ thuật đặc biệt, bức tranh Sự trường tồn của ký ức của Salvador Dali.
Sự trường tồn của ký ức của Salvador Dali là một trong những tác phẩm đặc biệt nhất của ông, được sáng tác vào năm 1931 sau một cuộc hành trình nghệ thuật dày công và đầy cảm xúc. Bức tranh này phản ánh rõ nét khả năng sáng tạo độc đáo của Dali thông qua các phong cách nghệ thuật đa dạng.
Trong những năm 1930, Dali thể hiện tài năng phi thường của mình và khám phá sâu hơn về lý thuyết tiềm thức của Freud. Phong cách nghệ thuật độc đáo của ông đã thu hút sự chú ý từ khắp nơi và ghi dấu ấn đặc biệt trong lòng người.
Hình ảnh của chiếc đồng hồ bị tan chảy đã biến Sự trường tồn của ký ức trở thành một trong những tác phẩm dễ nhận biết nhất của Dali. Bức tranh này thể hiện sự tương phản giữa sự cứng nhắc và sự mềm mại, tượng trưng cho khái niệm về thời gian và không gian.
Trong bức tranh, Dali vẽ một hình người trừu tượng được cho là chân dung của chính ông. Nhân vật này đại diện cho một linh hồn sâu thẳm, luôn du hành giữa thế giới hiện thực và thế giới tiềm thức.
Một con kiến bò qua đồng hồ ở dưới bên trái bức tranh, tượng trưng cho sự suy tàn. Điều này kết hợp cùng với hình ảnh vách đá tạo nên một không gian ấn tượng và đầy cảm xúc.
Có thể chiếc đồng hồ trong bức tranh là biểu tượng cho sự phân hủy, không chỉ về thời gian mà còn về sự trường tồn. Và phần cảnh quan với những vách đá là một phần của Catalonia, nơi có ý nghĩa đặc biệt đối với Dali.
Đây là một bức tranh khá nhỏ, ít lớn hơn so với dự đoán của bạn. Mặc dù là một tác phẩm đặc biệt của Dali, bức tranh sơn dầu này thực sự chỉ có kích thước 9 1/2″ x 13″.
Bức tranh này được trưng bày lần đầu tiên tại Phòng trưng bày Julien Levy và sau đó được thêm vào bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại (MoMA) ở Thành phố New York từ năm 1932, nhờ sự tài trợ từ một nhà bảo trợ ẩn danh.
Trên đây là phần trình bày về bức tranh Sự dai dẳng của ký ức của Salvador Dali của tôi. Xin cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe. Mong nhận được ý kiến đóng góp để bài thuyết trình được hoàn thiện hơn.