Yêu cầu
(trang 91, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Phân tích một tác phẩm văn học là làm rõ những nét đặc sắc về nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Việc phân tích một bài thơ châm biếm cũng cần được triển khai theo hướng đó. Trong bài học này, bạn sẽ được thực hành viết bài văn phân tích một bài thơ châm biếm, qua đó không chỉ củng cố kỹ năng đọc hiểu, tiếp nhận một bài thơ châm biếm mà còn tiếp tục phát triển kỹ năng phân tích một bài thơ mà bạn đã được rèn luyện ở bài 2.
Yêu cầu:
- Giới thiệu về tác giả và nội dung của bài thơ.
- Phân tích nội dung trào phúng của bài thơ để làm rõ chủ đề.
- Chỉ ra tác dụng của một số đặc điểm nghệ thuật trào phúng được thể hiện trong bài thơ.
- Khẳng định giá trị và ý nghĩa của bài thơ.
Phương pháp giải - Chi tiết
Sử dụng các gợi ý có sẵn trong sách giáo khoa để phân tích một bài thơ trào phúng.
Lời giải chi tiết
Phân tích bài thơ 'Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu':
Trần Tế Xương châm chọc nhất là vấn đề thi cử. Tài năng như ông mà phải trải qua tám kỳ thi mới đỗ được cái vị trí tài giỏi. Và vị trí tài giỏi ấy trong thời đó chỉ là 'ông Tú' làm quan ở nhà, chỉ ăn lương của vợ. Nhưng việc không được thụt thà trên con đường hiểm nguy chưa chắc đã là xui xẻo, bởi ông Tú Xương đã biến thành một thi sĩ, một nhà thơ lỗi lạc! Bài thơ 'Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu' là một cú đánh trời giáng của Tú Xương vào chế độ thi cử bất công, oan trái, và sự bất công của thời kỳ thuộc địa mới bắt đầu thống trị đất nước.
Là thí sinh, cũng là nạn nhân trong kỳ thi Hương năm Đinh Dậu (1897), tại Nam Định, Trần Tế Xương chứng kiến bằng mắt sự suy đồi của học thuyết Nho, đau lòng trước sự xấu hổ của các nhà văn hóa ở miền Bắc. Vì vậy, tác giả đã bắt đầu bài thơ bằng một lời phê phán sâu sắc về chế độ thực dân phong kiến thời điểm đó:
“Mỗi ba năm, nhà nước mở một kỳ thi
Trường Nam và trường Hà cùng tổ chức”
Tác giả nhấn mạnh về sự trang trọng của “nhà nước” khi nhắc đến nếu các hành động của họ được thực hiện tốt đẹp, đó là sự ca ngợi; nhưng nếu các hành động đó không mang lại kết quả tốt, đó sẽ là sự phê phán. Rõ ràng, Tú Xương đã phê phán 'nhà nước' thời phong kiến thông qua việc nhấn mạnh vào sự kiện 'mỗi ba năm mở một kỳ thi'. Dưới thời của 'nhà nước' phong kiến, tri thức đạo (chữ Nho) đã suy đồi. 'nhà nước' chỉ tổ chức kỳ thi cầm chừng, thiếu tính trang nghiêm của kỳ thi quốc gia: 'Trường Nam thi lẫn với trường Hà'. Lo ngại về an ninh ở Hà Nội, 'nhà nước' đã lừa sĩ tử Hà Nội xuống Nam Định 'thi lẫn' với sĩ tử trường Nam. Chỉ một từ 'lẫn', Tú Xương tiết lộ sự hỗn loạn của kỳ thi quốc gia và chỉ trích 'nhà nước' thiếu trách nhiệm.
Trong hai câu tiếp theo, nhà thơ Tú Xương thông qua biếm họa mô tả sĩ tử và quan trường một cách sắc bén:
“Sĩ tử đeo lọ, quan trường lôi thôi
“Quan trường nhộn nhịp, người cứ thét to”
Tú Xương có khả năng đặc biệt mà Nguyễn Công Hoan tôn trọng như 'thiên tài thơ chữ' là khả năng diễn đạt về bản chất của sự vật chỉ trong một từ. Chỉ cần một từ 'lôi thôi' được sắp xếp phía tría trước, nhấn mạnh hình ảnh của sĩ tử bị chìm trong sự bất ổn. Sĩ tử không thấy bằng bút mực, chỉ trở nên nổi bật với việc đeo một cái lọ (vì xa nhà, họ phải mang theo lọ nước uống). Hàng ngàn 'sĩ tử vai đeo lọ' khiến tình hình trở nên rối bời, là bức tranh châm biếm sâu sắc về học sinh tham gia kỳ thi trong thời kỳ thực dân hỗn loạn. Còn quan trường thì 'nhộn nhịp' như một cách mếu máo. Sĩ tử tập trung ở cả hai trường thi nên quan trường phải 'thét to' để giao lưu, và họ còn thể hiện sự coi thường đối với sĩ tử, khiến mọi thứ trở nên 'nhộn nhịp' đáng ghét. Thái độ của nhà thơ thể hiện rõ ràng. Đối với 'sĩ tử', Tú Xương thấy tình trạng bất ổn đáng tiếc; đối với 'quan trường', Tú Xương thấy sự khinh bỉ. Quan trường của một kỳ thi quốc gia không chỉ hỗn loạn mà còn thể hiện sự 'nhộn nhịp' không biết nhục.
Tú Xương ghi lại một hiện tượng chưa từng thấy trong lịch sử thi cử của nước ta trong kỳ thi Đinh Dậu, cả một đám người nước ngoài đứng chen chúc ở trường thi:
“Cờ tung bay khắp nơi, quan sứ đến nơi
Váy lê phủ đất, người phụ nữ bụi bặm”
“Cờ hay Lọng?” Trong sách giáo khoa hiện tại ghi là “Cờ”, nhưng có ghi chú: có bản ghi là “Lọng”. Thơ của Tú Xương gần gũi với thơ dân gian, ông không xuất bản, chỉ truyền miệng, dễ dẫn đến “thất bản”. Trong các trường hợp như vậy, người đọc, người nghiên cứu phải chọn lựa. Người biên soạn sách giáo khoa chọn “Cờ” để làm cho “váy lê” ở câu dưới trở nên đặc biệt. “Cờ” khi đối diện với “váy” quá độc! Theo tôi, “Lọng” tốt hơn:
“Lọng rợp trời quan sứ đến”
Quan sứ đến (công sứ Nam Định Lơ Nooc Măng, đèn dự lễ xướng danh khoa thi Hương) hẳn phải có “Lọng rợp trời” mới “rợp trời” được. Vế đối “Lọng rợp trời” với “váy lê phết đất” cũng đều đặn, nhưng không kém phần độc đáo. Lọng là cái nón che đầu của “quan sứ” nhưng lại kết hợp với “váy” là phần che dưới mông của “mụ đầm”! “Quan sứ” đến”, “mụ đầm ra”, chúng nó “đến”, chúng nó “ra” như thế thì quá nhục, không chịu được, Tú Xương đã chỉ trích một cách sắc bén bọn Tây đầm thực dân ồn ào trong thời kỳ hỗn loạn! Tú Xương sắc sảo trong việc so sánh cặp từ, đối diện sự trang nghiêm với những thứ không đáng hô, ông đặt sự trầm tư, ông đưa ra những thứ không thích hợp để nói lên điều gì đó. Nghĩ về những người quan văn và quan võ thời đó, ông mang ra ví dụ về chiếc nón (nón lá hay nón tròn) so với cái khố (khố màu đỏ hoặc xanh). Kể lại việc kỳ thi chữ nho có sự tham gia của người Tây, ông so sánh cái nón của quan sứ với váy của mụ đầm, và cái mông của mụ đầm với cái đầu của một người cử dốt đang cúi đầu lạy múa áo vua ban...
Trong phần kết của bài thơ, tác giả chuyển từ phong cách trào lộng sang phong cách trữ tình, bi thương. Tú Xương đau lòng gửi lời nhắn nhủ đến “tài năng đất Bắc”:
“Tài năng đất Bắc ơi đừng vội vã
Hãy quay đầu nhìn lại quê hương”
Âm điệu trữ tình đậm đà đó như là kết hợp của sự trữ tình nồng nhiệt từ các nhà yêu nước đầu thế kỷ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng... Dù trong bản sắc chung của lòng yêu nước ấy, ta vẫn cảm nhận được sự đặc biệt của Tú Xương. Khi có lúc thổn thức tiếc nuối “Nhân tài đất Bắc nào ai đó”, có khi tự tin kiêu hãnh “Ngoảnh cổ mà trông lại nước nhà”. Không phải chuyện dễ dàng khi đặt một từ “ngoảnh cổ” như vậy trước giới trí thức Bắc Hà. Phải có trí tài và quan trọng hơn nữa là phải có tấm lòng với đất nước, với dân tộc thì nhân tài đất Bắc mới thực sự đáng quý. Đúng là sự thổn thức yêu nước của Tú Xương là bằng chứng cho những gì là lời nói của nhà thơ:
“Trời không mưa biển không sóng
Đêm nào tớ cũng cô đơn buồn”
(Đêm hè)
Đối với Tú Xương, sự suy đồi của đạo học (chữ Nho) là biểu hiện của sự mất mát quốc gia, của sự nô lệ. Đối với ông, sự nhục nhã trong “Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” là sự nhục nhã của sự mất mát quốc gia! “Theo tôi, thơ là hình ảnh, là sự phản ánh, thơ cũng là một loại hình cụ thể, có hình dáng. Nhưng nó khác biệt so với cái cụ thể của văn. Dù nó bắt nguồn từ cái thực tế, nhưng từ một cái cụ thể, nó có thể khám phá ra những điều vô hình, từ một điểm nhất định, nó mở ra một không gian, một thời gian mà trong đó truyền đi một thông điệp sâu sắc” (Nguyễn Tuân).
“Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu” của Trần Tế Xương là một “sử thi” về cuộc sống của nhà nho khi Tây phương xâm nhập. Đạo học suy đồi, cuộc thi cử lộn xộn, sĩ tử mất hết phong độ, quan trường mất đi phẩm chất. Những kẻ thực dân tự cao tự đại khi đến trường thi là một sự nhục nhã đối với tài năng của đất Bắc. Nỗi đau của nhà thơ đã thức tỉnh tầng lớp trí thức của thời đại.
Nghệ thuật trào lướt và trữ tình của Tú Xương đều sâu sắc, thấm đẫm. Đối với các sĩ tử, nhà thơ âu yếm nhưng cũng hàm chứa tiếng cười, đối với quan trường, nhà thơ phớt lờ nhưng cũng châm chọc, đối với bọn thực dân, nhà thơ căm ghét nhưng cũng nổi giận, đánh đập. Từ lời nói, hình ảnh, cảm xúc, kỹ thuật viết của bài thơ phản ánh tài năng của một tâm hồn thơ phúc hậu. Đúng như lời ca tụng của Yên Đổ:
“Có người chín suối rã xương mà không phai
Có lẽ ngàn thu không đủ diễn tả'