Hướng dẫn
(trang 72, sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8, tập 2)
1.1. Trong sách Ngữ văn lớp 8, tập một, học sinh đã được huấn luyện viết bài văn nghị luận về một vấn đề của cuộc sống (Bài 4) và viết bài văn bàn về một vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm văn học (Bài 5). Bài 8 tập trung vào việc rèn luyện kỹ năng viết bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí. Bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí thường tập trung làm rõ nội dung và ý nghĩa của một nhận định, một ý kiến về tư tưởng, cảm xúc hoặc quan điểm về lối sống, cách ứng xử,... Đề bài nghị luận về một tư tưởng, đạo lí thường sẽ lấy một câu danh ngôn, tục ngữ, ca dao,... nào đó để đưa ra yêu cầu. Ví dụ:
Đề 1. Suy nghĩ về câu tục ngữ. 'Chết trong còn hơn sống đục.'.
Đề 2. Suy nghĩ về câu nói của danh tướng Trần Bình Trọng: 'Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc.'.
1.2. Để viết bài văn nghị luận về một tư tưởng, đạo lí, học sinh cần chú ý:
- Hiểu rõ nội dung, ý nghĩa của tư tưởng, đạo lí được đưa ra trong đề bài.
- Trình bày ý kiến (đồng tình hoặc phản đối) của mình về tư tưởng, đạo lí đó và giải thích lý do.
- Tìm ý và lập dàn ý cho bài viết: Dựa vào đề bài để xác định cách tìm ý phù hợp (đặt câu hỏi hoặc suy luận)
- Sử dụng logic và bằng chứng phù hợp để làm rõ ý kiến, tăng sức thuyết phục cho bài viết
Bài tập thực hành
(trang 73, sách giáo khoa Ngữ văn lớp 8, tập 2)
Hay suy ngẫm về câu nói của danh tướng Trần Bình Trọng: “Ta thà làm ma nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc”
Phương pháp giải:
Viết bài văn theo hướng dẫn
Lời giải chi tiết:
Bài tập tham khảo
Trong lịch sử Việt Nam, có nhiều câu nói của anh hùng dân tộc để lại dấu ấn sâu sắc. Một trong những câu nói nổi tiếng đó là lời phát biểu: 'Ta thà làm ma nước Nam, chứ không muốn làm vua của đất Bắc' của danh tướng Trần Bình Trọng thời nhà Trần.
Trần Bình Trọng sinh năm Kỷ Mùi (1259) tại xã Bảo Thái, nay thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Ông là con trai của vua Lê Đại Hành và cha ông làm quan dưới thời Trần Thánh Tông, được nhà vua trao quốc thích. Do đó, Trần Bình Trọng được gọi là họ Trần thay vì họ Lê. Sách Toàn thư, quyển V, kỷ Nhân Tông ghi: 'Bình Trọng dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau của công chúa Thụy Bảo, do cha ông làm quan đời Trần Thái Tông, nên được nhà vua ban quốc tính họ Trần'.
Lời phát biểu của Trần Bình Trọng được ghi nhận trong thời gian ông bị bắt sau trận chiến với quân Nguyên - Mông lần thứ hai. Dù bị giặc dụ dỗ hứa phong vương, ông vẫn kiên quyết từ chối với lời nói: 'Ta thà làm ma nước Nam còn hơn làm vua của đất Bắc'. Điều này thể hiện ý thức về lòng yêu nước và kiêng kỵ đối với quan địch phương Bắc. Lời phát biểu của Trần Bình Trọng khiến quân giặc tức giận và hành quyết ông ngay lập tức. Đó là tháng Chạp năm Ất Dậu (1285), ông mới 26 tuổi. Lời phát biểu của ông vẫn là nguồn cảm hứng cho thế hệ trẻ Việt Nam, khẳng định ý chí cống hiến cho Tổ quốc.
Nhờ sự hy sinh của Trần Bình Trọng và những chiến công vang dội, nhà Trần có cơ hội chuẩn bị cho cuộc phản công. Một số tháng sau, quân nhà Trần đã đánh bại quân Nguyên - Mông. Công lao của Trần Bình Trọng được vua Nhân Tông công nhận và ông được truy phong là Bảo nghĩa vương.
Tưởng nhớ công lao của Bảo nghĩa vương Trần Bình Trọng, tên ông được đặt cho nhiều địa danh trên cả nước. Ở Hà Nội, có tuyến phố Trần Bình Trọng kết nối giữa phố Trần Hưng Đạo và phố Trần Nhân Tông, hai nhân vật anh hùng cùng thời với Trần Bình Trọng trong cuộc chiến chống quân Nguyên - Mông.