Với bài soạn Về chính chúng ta trang 100, 101, 102, 103 trong sách Ngữ văn lớp 10 Kết nối tri thức, học sinh sẽ dễ dàng trả lời các câu hỏi và soạn văn 10.
Soạn văn Về chính chúng ta - Kết nối tri thức
* Trước khi đọc
Câu hỏi (trang 100 SGK Ngữ Văn 10 tập 2 – Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống):
Từ ngàn xưa đến nay, con người luôn khao khát chinh phục tự nhiên. Đời sống ngày càng hiện đại, phát triển, con người ngày càng thể hiện khả năng chinh phục, chiếm lĩnh thế giới của mình. Tuy nhiên, có lẽ con người không nên tự mãn với vạn vật trên thế giới, không chỉ con người mà cả vật thể đều có quyền bình đẳng và tự chủ cuộc sống của mình.
* Trong khi đọc
1. Phân tích về ý đồ của tác giả khi đặt vấn đề bằng hàng loạt câu hỏi
- Tác giả đặt ra hàng loạt câu hỏi để khơi gợi trong người đọc sự tò mò, quan tâm, thu hút sự chú ý vào những câu hỏi với những vấn đề như: giá trị của con người là gì?, Từ đó, tác giả hướng dẫn người đọc tự tìm kiếm câu trả lời thông qua việc nghiên cứu văn bản.
2. Đoạn văn nào thể hiện quan điểm của tác giả?
- Trong bức tranh khoa học rộng lớn ngày nay, có nhiều điều chúng ta không thể hiểu và một trong những điều mà chúng ta hiểu ít nhất là chính chúng ta.
3. Nhận diện 2 từ khóa phản ánh mối quan hệ giữa con người và thế giới trong đoạn văn
- cá nhân (con người) – mạng lưới (thế giới)
4. Lưu ý phép diễn trong văn bản
- Chúng ta từng tin rằng ..... Chúng ta từng nghĩ rằng.....Chúng ta có cùng..... Chúng ta giống như.....
5. Chú ý các lý lẽ, bằng chứng chứng minh cho luận điểm: “Tri thức của chúng ta chung quy đều phản ánh thế giới”
- Lý lẽ: Thông tin mà một hệ vật lí này có về hệ vật lí khác không có gì thuộc về ý thức hay chủ quan hết: nó chỉ là mối liên quan mà giữa vật lí định ra giữa trạng thái của vật này với trạng thái của vật khác.
- Dẫn chứng: Một giọt mưa chứa thông tin về sự hiện diện của một đám mây trên trời; một tia sáng chứa thông tin về màu sắc của chất đã gửi nó đến mắt ta, một chiếc đồng hồ có thông tin về thời gian trong ngày; gió mang thông tin về một trận bão đang áp đến; virus cảm lạnh có thông tin về tính dễ tổn thương của cái mũi tôi; DNA trong tế bào chúng ta chứa tất cả thông tin về mã di truyền của chúng ta; và não tôi tràn ngập những thông tin được tích lũy từ trải nghiệm của tôi.
6. Xác định câu văn khái quát ý tưởng chính của đoạn văn
- Chúng ta là một bộ phận hữu cơ của tự nhiên; chúng ta là tự nhiên, là một trong vô số các biểu hiện biến thiên vô cùng vô tận của nó.
7. Hình ảnh nào được sử dụng để nói về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên?
- Hình ảnh ngôi nhà được sử dụng để nói về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Tự nhiên là nhà của chúng ta và sống trong tự nhiên nghĩa là chúng ta đang ở nhà của mình.
* Sau khi đọc
Nội dung: Văn bản “Về chính chúng ta” của Các-lô Rô-ve-li đã lí giải giá trị của con người, xác định mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên, từ đó khẳng định: con người là một bộ phận hữu cơ của tự nhiên, con người cũng là tự nhiên và là một trong vô số các biểu hiện biến thiên vô cùng tận của nó.
* Trả lời câu hỏi sau khi đọc
Câu 1 (trang 103, SGK Ngữ Văn 10 tập 2 – Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)
- Trong văn bản, tác giả đã trình bày quan điểm về giá trị của con người trong thế giới tự nhiên. Quan điểm ấy được thể hiện qua các luận điểm:
+ LĐ1: Con người là những chủ thể biết quan sát thế giới
+ LĐ2: Tri thức của chúng ta chung quy đều phản ánh thế giới
+ LĐ3: Con người là một bộ phận hữu cơ của tự nhiên
+ LĐ4: Tự nhiên là ngôi nhà của chúng ta và sống trong tự nhiên nghĩa là chúng ta đang ở nhà của mình
Câu 2 (trang 103, SGK Ngữ Văn 10 tập 2 – Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)
- Để làm sáng tỏ luận điểm, tác giả đã sử dụng lý lẽ là những đánh giá, nhận xét vừa mang tính khách quan vừa thể hiện tính chủ quan cá nhân về con người và thế giới:
+ trong bức tranh khoa học rộng lớn ngày nay, có nhiều thứ chúng ta không hiểu nổi, và một trong những thứ mà ta hiểu ít nhất là chính chúng ta.
+ chúng ta, con người, trước hết là những chủ thể biết quan sát thế giới này, những nhà sáng lập tập thể của bức tranh về thực tại mà tôi đã cố gắng mô tả lại.
+ tri thức của chúng ta chung quy đều phản ánh thế giới.
+ Thông tin mà một hệ vật lý này có về hệ vật lý khác không thuộc về ý thức hay chủ quan: nó chỉ là mối liên quan mà vật lý định ra giữa trạng thái của vật này với trạng thái của vật khác.
- Để làm sáng tỏ luận điểm, tác giả đã sử dụng bằng chứng là những thông tin khoa học, được mọi người công nhận:
+ Chúng ta từng tin rằng mình ở trên một hành tinh nằm tại trung tâm vũ trụ rồi hóa ra không phải vậy....chúng ta học được mình là ai.
+ Một giọt mưa chứa thông tin về sự hiện diện của một đám mây khác trên trời......thông tin được tích lũy từ trải nghiệm của tôi.
- Những thông tin khoa học trong văn bản giúp lí lẽ của người viết có căn cứ đúng đắn, thuyết phục được người đọc, người nghe.
Câu 3 (trang 103, SGK Ngữ Văn 10 tập 2 – Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)
- Yếu tố miêu tả:
+ Chúng ta là như các nút trong một mạng lưới của những sự trao đổi
+ Chúng ta không phải là những người quan sát đứng ngoài cuộc. Chúng ta này trong đó. Cái nhìn của chúng ta về nó là nhìn từ bên trong nó.
=> Tác dụng: giúp người đọc hình dung chính xác và cụ thể về vị trí, vai trò của con người đối với thế giới tự nhiên.
- Yếu tố biểu cảm:
+ Tôi không thể, dù chỉ tưởng tượng, làm sao có thể trả lời một câu hỏi như thế trong một vài trang giấy.
+ Ai mà biết rằng còn tồn tại bao nhiêu những điều phức tạp phi thường gì khác, dưới các dạng thức mà có lẽ chúng ta không thể hiển dung nổi, trong những khoảng không vô tận của vũ trụ...Hẳn nhiên nhiều đến nỗi sẽ là ngây ngô khi cho rằng ở một góc ngoại vi của một thiên hà bình thường nào đó lại có cái gì đó là đặc biệt và duy nhất.
+ Thật là quyến rũ đến mê hồn.
=> Hiệu quả: Để nhấn mạnh vào quan điểm cá nhân của tác giả, từ đó tăng sự chú ý và thuyết phục của độc giả.
- Các biện pháp tu từ:
+ So sánh: Chúng ta giống như các nút trong một mạng lưới trao đổi. Chúng ta được tạo ra từ cùng những nguyên tử, cùng những tín hiệu ánh sáng như nguyên tử hoặc ánh sáng trao đổi giữa những cây thông trên núi hoặc giữa những ngôi sao trong vũ trụ.
+ Điệp câu trúc: Chúng ta từng tin rằng mình ở trên một hành tinh nằm ở trung tâm vũ trụ, nhưng rồi phát hiện ra không phải như vậy. Chúng ta từng nghĩ rằng mình là thứ tồn tại duy nhất, một loài riêng biệt hoàn toàn so với động vật và thực vật, nhưng rồi nhận ra rằng chúng ta là hậu duệ của các tổ tiên chung với tất cả các loài sống xung quanh chúng ta. Chúng ta có cùng tổ tiên xa xôi với con bướm và cây thông.....
+ Liệt kê: Một giọt mưa chứa thông tin về sự hiện diện của một đám mây trên trời; một tia sáng chứa thông tin về màu sắc của chất đã gửi nó đến mắt ta; một cái đồng hồ chứa thông tin về thời gian trong ngày; gió mang thông tin về một trận bão đang đến, virus cảm lạnh chứa thông tin về tính dễ tổn thương của cái mũi của tôi;....
=> Hiệu quả: Giúp những luận cứ của tác giả trở nên sống động, cụ thể, cung cấp đầy đủ thông tin, người đọc dễ hình dung, liên kết, từ đó tăng tính thuyết phục cho văn bản.
Câu 4 (trang 103, SGK Ngữ Văn 10 tập 2 – Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)
Tác giả đã trình bày quan điểm về mối quan hệ giữa con người và thực tại từ góc nhìn của một người trong cuộc. Trong đó, tác giả vừa thể hiện thái độ mang tính khách quan khi trình bày những bằng chứng khoa học, vừa thể hiện thái độ mang tính chủ quan khi phơi bày những đánh giá cá nhân của mình.
Câu 5 (trang 103, SGK Ngữ Văn 10 tập 2 – Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)
Tác giả cho rằng khả năng nhận thức của con người về thế giới đang dần tăng lên nhưng vẫn còn nhiều hạn chế. Bởi “bến bờ của những điều chúng ta đã biết, tiếp giáp với cả đại dương mênh mông của những điều chưa biết, rực sáng lên vằng hào quang của sự huyền bí và vẻ đẹp của thế giới”.
Câu 6 (trang 103, SGK Ngữ Văn 10 tập 2 – Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)
Nhận định của tác giả thể hiện những quan niệm sâu sắc về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. “Tự nhiên là nhà của chúng ta” bởi con người được sinh ra bởi tự nhiên và được tự nhiên bao bọc. “Sống trong tự nhiên nghĩa là chúng ta đang ở nhà của mình” bởi con người có thể làm chủ cuộc sống của bản thân, khám phá tự nhiên theo nhu cầu của bản thân. Tuy nhiên, con người không thể làm chủ tự nhiên bởi đó là một thế giới vô cùng bí ẩn mà không ai có thể đào sâu khám phá hết.
* Kết nối đọc – viết
Câu hỏi (trang 103 SGK Ngữ Văn 10 tập 2 – Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống)
Gợi ý
Nhận định kết thúc văn bản “Về chính chúng ta” của Các-lô Rô-ve-li đã để lại trong tôi nhiều ấn tượng sâu sắc: “Bến bờ của những điều chúng ta đã biết, tiếp giáp với cả đại dương mênh mông của những điều chưa biết, rực sáng lên vằng hào quang của sự huyền bí và vẻ đẹp của thế giới”. Câu nói ấy đã thôi thúc chúng ta khao khát khám phá thế giới trong hành trang cuộc sống của mình. Con người tuy là chủ thể có bộ não bậc cao trong thế giới tự nhiên nhưng chúng ta cũng chỉ là một bộ phận nhỏ bé của thế giới ấy. Tự nhiên là một thế giới vô cùng rộng lớn, kỳ bí mà con người sẽ không bao giờ có thể khám phá hết được. Trong cuộc sống hàng ngày cũng vậy, chúng ta không phải là những con người hoàn hảo, toàn vẹn trong mọi lĩnh vực. Mỗi chúng ta đều là những mảnh ghép còn mang trong mình những khuyết điểm, vì vậy không nên quá tự mãn về bản thân mà phải luôn tìm tòi, học hỏi, khao khát khám phá và hoàn thiện bản thân.