Yêu cầu
Sông Đà - điểm mốc quan trọng trong quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám
Giải thích chi tiết
Sông Đà thực sự là một cột mốc quan trọng trong quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám. Điều này cho thấy ngòi bút của ông đã đạt đến độ chín mới về cả tư tưởng và nghệ thuật.
Đọc Sông Đà, ta thấy Nguyễn Tuân đã suy ngẫm sâu sắc về những vấn đề tư tưởng của mình vào năm 1957. Ông gọi đó là sự mạnh mẽ của 'con đê làng', và việc đầu tiên khi đến Tây Bắc là để 'hàn gắn' con đê đó.
Về quan điểm về việc viết, chúng ta biết rằng vài năm trước, Nguyễn Tuân đã cho rằng nhà văn chỉ cần 'đặt ra vấn đề' mà không nhất thiết phải đề cập rõ ràng. Trong Sông Đà, ông im lặng điều chỉnh quan điểm ấy bằng cách thực sự 'đề xuất giải pháp' cho một bệnh tật tư tưởng mà ông gặp phải trên đường lên Tây Bắc, chẳng hạn như cho một thanh niên không hài lòng với cuộc sống 'nghĩa trang máy móc' không có tương lai (Đi mở đường), cho một phụ nữ công nhân tò mò về vấn đề quê hương (Dọn nhà lên Điện Biên) vv Ông mơ ước viết một cuốn tiểu thuyết mở lối: mở lối vào thiên nhiên Tây Bắc để tìm hiểu tài nguyên phong phú của đất nước, và mở lối vào lòng người để khám phá 'Những kho báu trong tâm hồn của những người chiến sĩ, công nhân đi mở đường' (Đi đường). Đó cũng là chủ đề chính của Sông Đà.
Đọc Sông Đà, chúng ta nhậnthấy quê hương mình thực sự là một vùng đất giàu đẹp. Chỉ cần nhìn vào Than Uyên, ta có thể thấy mỏ xi măng tự nhiên, mỏ thạch anh dùng làm thuỷ tinh đa sắc và đồ sứ, mỏ than, mỏ lân tinh, mỏ đồng, mỏ chì... Dọc theo sông Nậm Hu, có lúc lượng vàng được đo bằng hàng lạng vv... Cảnh vật ở Tây Bắc thật tuyệt đẹp, mọi nơi tác giả đều cảm thấy nguyện vọng muốn ngay lập tức vẽ ra những bức tranh. Những dãy núi mênh mông như biển, sông trắng xoá như lụa, những thung lũng lúa chín vàng óng ánh, trên đó mây trắng như thêu nổi vv... và hoa. Có bao nhiêu loại hoa gạo đỏ, hoa ban, hoa mận trắng, hoa lau tím, hoa chấu, hoa đào, hoa A phiến, 'những mảnh vườn thơm phức của A phiến Mèo, hoa xanh, hồng, tím và đỏ của sen, đỏ lửa lựu đang thu hút ong mùa xuân đến hái mật' (Gió Than Uyên). Đẹp nhất là Sông Đà 'tuôn dài như một sợi tóc tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo'.'
Nhưng Sông Đà không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là sự tìm kiếm vẻ đẹp của con người. Nguyễn Tuân gọi đò là 'vàng mười' của tâm hồn con người Tây Bắc. Ông theo dòng lịch sử tìm kiếm 'vàng mười' ấy ở những chiến sĩ cách mạng mạnh mẽ theo guồng bất khuất của nhà tù Sơn La, ở những cán bộ hoạt động bí mật tại Tây Bắc bị giặc chiếm đóng, đã vượt qua những thử thách kinh khủng để thực hiện cách mạng, ở những chiến sĩ quân đội, những đồng đội dân công tiến quân vào Điện Biên. Ông trở về, tìm đến những người mở đường, làm việc suốt ngày suốt đêm, không ngần ngại ngày nắng hay mưa 'không bao giờ nghỉ quá 24 tiếng', những chiến sĩ biên phòng Tây Trang vẻ vang dưới nắng cháy, gió Lào, những công nhân dũng cảm vượt thác Sông Đà để vận chuyển hàng hoá, những chiến sĩ quân đội chiến đấu để giải phóng Điện Biên, và hiện nay họ tự nguyện dẫn cả gia đình lên Điện Biên để lập nghiệp, những nhà địa chất trẻ đi tìm quặng mỏ...
Sông Đà đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của Nguyễn Tuân vì nó không chỉ còn gắn với những thói quen cũ như Đường Vui, Chiến dịch Tinh, mà còn không bị ràng buộc bởi tính cách và phong cách như những tác phẩm từ năm 1953-1956, một số người nghĩ rằng, về mặt phong cách, Nguyễn Tuân trước và sau Cách mạng không khác biệt. Nhưng không phải vậy. Sông Đà không còn thái độ kiêu ngạo, khinh bạc của Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua. Tuy nhiên, giữa Nguyễn Tuân trước Cách mạng và Nguyễn Tuân Sông Đà vẫn còn những điểm tương đồng về phong cách, nhưng đó là một vấn đề khác, là hiện tượng thông thường về mối quan hệ giữa sự đổi mới và tiếp tục, giữa sự đổi mới và sự kế thừa trong quá trình phát triển của văn học hoặc của một người viết. Sự kế thừa rõ ràng nhất của Sông Đà đối với phong cách cũ của Nguyễn Tuân nằm ở cách nhìn nghiêng về mặt mỹ thuật. Qua tác phẩm, Tây Bắc và Sông Đà hiện lên như một kiệt tác thiên nhiên. Và những người lái đò trên con sông đẹp và thơ ấy, không giống như 'Người tình nhân muôn thuở Trương Chi', cũng là những nghệ sĩ tài năng trong nghệ thuật vượt thác, leo dốc. Khi cần, họ gợi lại những nỗi đau của nhân dân Tây Bắc ngày xưa, thì hình ảnh nổi lên mạnh mẽ nhất vẫn là hình ảnh của những cô gái với 'tác phẩm nghệ thuật' của mình. Nhưng nếu trước kia là cái đẹp mang tính chất nặng nề về hình thức và có chút hiếu kỳ, liên quan đến tầng lớp quý tộc suy tàn, thì ngày nay là cái đẹp gần gũi với nhân dân lao động, với cuộc sống đang phát triển, cái đẹp được thể hiện ở mọi phía, không chỉ ở phía hình thức mà còn ở phía nội dung xã hội, để lên án chế độ cũ, khẳng định chế độ mới.
Có người cho rằng Sông Đà vẫn còn mang tính chất quay về quá khứ của tác giả Vang bóng một thời. Cũng có thể thấy, ở một số chỗ, có vẻ như cái 'rơi rớt' ấy vẫn hiện hữu ('Bóng nắng cuối cùng vẫn chiếu theo bóng ngựa kéo theo một cái thùng chứa đầu người theo trí tưởng tượng của tồi'. - Phố Núi). Tuy nhiên, nhìn chung, nếu Sông Đà viết về quá khứ, thì với tinh thần hướng về hiện tại và tương lai.
GS Nguyễn Đăng Mạnh
Nhà văn - Tư duy và phong cách NXB Văn học, 1983