Dnepr | |
tiếng Nga: Днепр (Dnepr) tiếng Belarus: Дняпро (Dnyapro) tiếng Ukraina: Дніпро (Dnipro) | |
Sông | |
Sông Dnepr tại Kyiv, Ukraina
| |
Các quốc gia | Nga, Belarus, Ukraina |
---|---|
Các phụ lưu | |
- tả ngạn | Sozh, Desna, Trubizh, Supiy, Sula, Psel, Vorskla, Samara, Konka, Bilozerka |
- hữu ngạn | Drut, Berezina, Prypiat, Teteriv, Irpin, Stuhna, Ros, Tiasmyn, Bazavluk, Inhulets |
City | Dorogobuzh, Smolensk, Mogilev, Kyiv, Cherkasy, Dnipro |
Nguồn | |
- Vị trí | Vùng đồi Valdai, Nga |
- Cao độ | 220 m (722 ft) |
- Tọa độ | |
Cửa sông | Cửa sông Dnieper–Bug |
- cao độ | 0 m (0 ft) |
- tọa độ | |
Chiều dài | 2.145 km (1.333 mi) |
Lưu vực | 504.000 km (194.595 dặm vuông Anh) |
Lưu lượng | tại Kherson |
- trung bình | 1.670 m/s (58.975 cu ft/s) |
Lưu vực sông Dnepr |
Settlements next to the Dnieper Towns/villages blank spaces indicate as place above (") |
---|
Sông Dnepr (tiếng Nga: Днепр, chuyển tự Dnepr; tiếng Ukraina: Дніпро, chuyển tự Dnipro phát âm [dʲnʲiˈprɔ] ; tiếng Belarus: Дняпро, chuyển tự Dniapro) là một con sông lớn chảy qua nhiều quốc gia ở châu Âu. Sông bắt nguồn từ vùng đồi Valdai gần Smolensk, Nga, và chảy qua Belarus, Ukraina trước khi đổ ra biển Đen. Đây là con sông dài nhất tại Ukraina và Belarus, đứng thứ tư trong danh sách các sông dài nhất châu Âu, chỉ sau Volga, Danube và Ural. Sông Dnepr dài khoảng 2.200 km và có diện tích lưu vực khoảng 504.000 km².
Trong thời kỳ cổ đại, sông Dnepr là một phần quan trọng của con đường hổ phách. Vào cuối thế kỷ 17, khu vực này đã chứng kiến sự cạnh tranh giữa Liên bang Ba Lan, Lietuva và Nga, chia Ukraina thành các khu vực bờ phải và bờ trái. Thời kỳ Liên Xô, sông nổi bật với các công trình đập thủy điện và hồ chứa lớn. Thảm họa Chernobyl 1986 xảy ra gần sông Pripyat, ngay trên điểm giao nhau của nó với Dnepr. Sông Dnepr là một tuyến giao thông thiết yếu cho kinh tế Ukraina và kết nối với các tuyến đường thủy khác ở châu Âu qua kênh đào Dnepr–Bug.
Tên gọi
Tên của sông có sự khác biệt nhỏ trong các ngôn ngữ Slav của ba quốc gia mà sông chảy qua:
- tiếng Belarus: Дняпро, chuyển tự Dnyapro, [dnʲaˈprɔ], hoặc Днепр Dnyepr, [ˈdnʲɛpr]
- tiếng Nga: Днепр, chuyển tự. Dnepr, IPA: [dʲnʲepr]; cách viết cũ Днѣпръ
- tiếng Ukraina: Дніпро, chuyển tự Dnipro, IPA: [ɟɲiˈprɔ] ; tên cổ Дніпр, Dnipr; tên cũ hơn Дніпер Dniper, [ˈɟɲiper], hoặc tên cũ hơn nữa Днѣпръ (Dnipr, [ˈdnipr])
Các tên gọi này đều có nguồn gốc từ tiếng Đông Slav cổ Дънѣпръ (Dŭněprŭ). Nguồn gốc của tên gọi vẫn còn gây tranh cãi, nhưng thường được cho là bắt nguồn từ tiếng Sarmatia *Dānu Apara ('sông xa') so với Dniester ('sông gần') hoặc từ tiếng Scythia *Dānu Apr ('sông sâu') do sông không có nhiều chỗ cạn, từ đó cũng dẫn đến tên gọi cổ đại sau này là Danapris (Δαναπρις).
Trong tiếng Anh, chữ cái đầu tiên D trong Dnieper thường không được phát âm, nhưng cũng có thể được đọc là: /(d)ˈniːpər/ (D)NEE-pər. Các giọng nói không có âm /r/ cuối cùng cũng thường không phát âm âm cuối. Tên gọi bắt nguồn từ việc chuyển tự tiếng Pháp của tên sông trong tiếng Nga. Phát âm của tên Dnipro thường nhấn mạnh vào âm tiết thứ hai: /(d)niːˈproʊ/ (d)nee-PRO. Ít phổ biến hơn, âm nhấn có thể vào âm tiết đầu tiên, âm tiết thứ hai biến thành âm schwa: /ˈ(d)niːprə/ (D)NEE-prə.
Tên Scythia cổ của sông Dnipro là *Varustāna, có nghĩa là 'khu vực rộng lớn,' và đã ảnh hưởng đến các tên gọi sau đây:
- Tên Hy Lạp-La Mã của sông, Borysthenes (Βορυσθενης Borusthenēs; Latin: Borysthenes). Tên này có sự liên kết với tên của sông Volga trong tiếng Hy Lạp-La Mã, Oarus (tiếng Hy Lạp cổ đại: Οαρος Oaros; Latin: Oarus), bắt nguồn từ tiếng Scythia *Varu, nghĩa là 'rộng.'
- Tên Borysthenes đã chuyển thành tên Latin thơ ca của sông, Boristhenius
- Tên tiếng Hun của sông, Var, cũng xuất phát từ tiếng Scythia *Varu, có nghĩa là 'rộng.'
Trong giai đoạn Đại Bulgaria Cổ, sông được gọi là Buri-Chai, và vào thời kỳ Rus Kiev, nó mang tên Славу́тич (Slavútytch), tên này vẫn còn được sử dụng trong văn học Ukraina do ảnh hưởng của sử thi Đông Slav Cổ Truyện kể cuộc viễn chinh Igor và phiên bản hiện đại của nó. Tên này cũng đã được dùng để đặt cho thành phố Slavutych, được thành lập sau thảm họa Chernobyl năm 1986 để làm nơi cư trú cho những người bị di dời. Người Kipchak gọi sông là Uzeu, người Tatar Krym gọi là Özü, và người Thổ Nhĩ Kỳ hiện nay gọi sông là Özü hoặc Özi.
Địa lý
Chiều dài tổng thể của sông được ghi nhận khác nhau, khoảng 2.145 km (1.333 mi) hoặc 2.201 km (1.368 mi), trong đó 485 km (301 mi) chảy qua Nga, 700 km (430 mi) qua Belarus, và 1.095 km (680 mi) qua Ukraina. Diện tích lưu vực của sông là 504.000 km² (195.000 dặm vuông Anh), trong đó 289.000 km² (112.000 dặm vuông Anh) thuộc Ukraina, và 118.360 km² (45.700 dặm vuông Anh) thuộc Belarus.
Sông Dnepr bắt nguồn từ các bãi lầy cói (Akseninsky Mokh) ở vùng đồi Valdai tại miền trung Nga, nằm ở độ cao 220 m (720 ft). Một phần của sông dài 115 km (71 mi) đóng vai trò là biên giới tự nhiên giữa Belarus và Ukraina. Cửa sông từng được bảo vệ bởi một pháo đài kiên cố ở Ochakiv.
Điểm cực nam của Belarus nằm trên sông Dnepr, phía nam Kamaryn thuộc huyện Brahin.
Sông Dnepr có nhiều phụ lưu (lên tới 32.000), với 89 con sông dài hơn 100 km. Các phụ lưu chính bao gồm:
- Vyazma (bờ trái)
- Vop (bờ phải)
- Khmost (bờ phải)
- Myareya (bờ trái)
- Drut (bờ phải)
- Berezina (bờ phải)
- Sozh (bờ trái)
- Pripyat (bờ phải)
- Teteriv (bờ phải)
- Irpin (bờ phải)
- Desna (bờ trái)
- Stuhna (bờ phải)
- Trubizh (bờ trái)
- Ros (bờ phải)
- Tiasmyn (bờ phải)
- Supii (bờ trái)
- Sula (bờ trái)
- Psyol (bờ trái)
- Vorskla (bờ trái)
- Oril (bờ trái)
- Samara (bờ trái)
- Konka (bờ trái)
- Bilozerka (bờ trái)
- Bazavluk (bờ phải)
- Inhulets (bờ phải)
Sông Dnepr có nhiều phụ lưu nhỏ trực tiếp, ví dụ như ở vùng Kyiv có Syrets (bờ phải) nằm phía bắc thành phố, Lybid (bờ phải) chảy qua trung tâm phía tây với giá trị lịch sử, và Borshahivka (bờ phải) ở phía nam.
Lưu vực sông Dnepr cung cấp khoảng 80% tài nguyên nước của toàn Ukraina.
Các ghềnh trên sông Dnepr là phần quan trọng của tuyến mậu dịch giữa người Varangia và người Hy Lạp, lần đầu được nhắc đến trong Biên niên sử Kyiv. Tuyến đường này có thể đã hình thành vào cuối thế kỷ 8 và đầu thế kỷ 9, và trở nên quan trọng từ thế kỷ 10 đến đầu thế kỷ 11. Trên sông Dnepr, người Varangia phải chuyển tải tàu của mình qua bảy ghềnh, đồng thời cần cảnh giác với các cuộc tấn công của dân du mục Pecheneg. Sau khi nhà máy thủy điện Dnepr được xây dựng vào năm 1932, các ghềnh này đã bị ngập trong hồ chứa Dnepr.
Một số kênh đào kết nối với sông Dnepr bao gồm:
- Kênh đào Dnepr–Donbas;
- Kênh đào Dnepr–Kryvyi Rih;
- Kênh đào Kakhovka (nằm đông nam tỉnh Kherson);
- Hệ thống tưới tiêu Krasnoznamianka ở tây nam tỉnh Kherson;
- Kênh đào Bắc Krym—cung cấp một phần lớn nước cho bán đảo;
- Hệ thống tưới tiêu Inhulets.
Sông Dnepr là môi trường sống của loài trai quagga. Loài trai này, không may đã được du nhập vào nhiều nơi trên thế giới, trở thành một loài xâm lấn.
Hệ sinh thái
Hiện nay, sông Dnepr bị ảnh hưởng bởi hoạt động của con người và chứa nhiều chất thải ô nhiễm. Sông gần với bãi chứa phóng xạ của nhà máy hóa chất Prydniprovsky (gần Kamianske) và có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi sự rò rỉ phóng xạ. Sông cũng gần với nhà máy điện hạt nhân Chernobyl (vùng cấm Chernobyl), nằm ngay gần cửa sông Pripyat.
Giao thông
Tàu thuyền có thể di chuyển trên chiều dài 2.000 km (1.200 mi) của sông (đến thành phố Dorogobuzh). Sông Dnieper đóng vai trò quan trọng trong hệ thống giao thông của nền kinh tế Ukraina: Các hồ chứa trên sông có các cổng âu thuyền lớn, cho phép tàu cỡ 270 x 18 mét (886 ft × 59 ft) có thể tiếp cận sâu tới Kyiv, làm cho sông trở thành một tuyến đường giao thông thiết yếu. Các tàu chở khách cũng hoạt động trên sông. Trong những năm gần đây, thị trường du thuyền nội địa trên sông Danube và Dnieper đã có sự phát triển mạnh mẽ.
Ngược dòng từ Kyiv, sông Dnieper nhận nước từ sông Pripyat, sông này liên kết với kênh đào Dnepr-Bug, kết nối với sông Bug. Trước đây, sông có thể kết nối với các tuyến đường thủy Tây Âu, nhưng một đập không có cửa âu thuyền gần thị trấn Brest, Belarus đã cắt đứt tuyến đường quốc tế này. Mối quan hệ căng thẳng giữa Tây Âu và Belarus làm giảm khả năng mở lại tuyến đường này trong tương lai gần. Việc di chuyển cũng bị ảnh hưởng hàng năm do sông đóng băng hoặc bão mùa đông khắc nghiệt.
Thành phố và thị xã ven sông
Từ nguồn gốc đến cửa sông:
Arheimar, thủ đô của người Goth, nằm dọc theo sông Dnepr, theo truyền thuyết dân gian Hervarar.
Năng lượng điện
Từ nguồn sông Pripyat đến nhà máy thủy điện Kakhovka, có tổng cộng sáu tổ hợp đập và nhà máy thủy điện, đóng góp 10% vào sản lượng điện của Ukraina.
Nhà máy thủy điện đầu tiên được xây dựng là nhà máy Dnepr (hay còn gọi là DniproHES) gần Zaporizhzhia, được xây dựng từ năm 1927 đến 1932 với công suất 558 MW. Nhà máy này bị phá hủy trong Thế chiến II nhưng được phục hồi vào năm 1948 với công suất 750 MW.
Vị trí | Đập | Diện tích hồ chứa | Nhà máy thủy điện | Thời điểm xây dựng |
---|---|---|---|---|
Kyiv | hồ chứa nước Kyiv | 922 km hay 356 dặm vuông Anh | nhà máy thủy điện Kyiv | 1960–1964 |
Kaniv | hồ chứa nước Kaniv | 675 km hay 261 dặm vuông Anh | nhà máy thủy điện Kaniv | 1963–1975 |
Kremenchuk | hồ chứa nước Kremenchuk | 2.250 km hay 870 dặm vuông Anh | nhà máy thủy điện Kremenchuk | 1954–1960 |
Kamianske | hồ chứa nước Kamianske | 567 km hay 219 dặm vuông Anh | nhà máy thủy đuện Dnepr Trung | 1956–1964 |
Zaporizhzhia | hồ chứa nước Dnepr | 420 km hay 160 dặm vuông Anh | nhà máy thủy điện Dnieper | 1927–1932; 1948 |
Kakhovka | hồ chứa nước Kakhovka | 2.155 km hay 832 dặm vuông Anh | nhà máy thủy điện Kakhovka | 1950–1956 |