
Hoàng Hà | |
---|---|
Dòng chảy của Hoàng Hà qua Trung Quốc | |
Vị trí | |
Quốc gia | Trung Quốc |
Đặc điểm địa lý | |
Thượng nguồn | Dãy Côn Lôn, Thanh Hải |
• cao độ | 4.500 m |
Cửa sông | Vịnh Bột Hải - Hoàng Hải |
• cao độ | 0 m |
Độ dài | 5.464 km |
Diện tích lưu vực | 752.000 km² |
Lưu lượng | 2.571 m³/s |

Sông Hoàng Hà (tiếng Hán: 黃河; pinyin: Huáng Hé; Wade-Giles: Hwang-ho, 'Hoàng' nghĩa là màu vàng của mặt trời, 'Hà' chỉ mặt nước, ghép lại thành Hoàng Hà, có nghĩa là dòng sông màu vàng), là con sông dài thứ hai ở châu Á, chỉ đứng sau sông Trường Giang (Dương Tử), với chiều dài 5.464 km, sông Hoàng Hà đứng thứ sáu thế giới về độ dài.
Sông Hoàng Hà chảy qua chín tỉnh của Trung Quốc, bắt nguồn từ dãy núi Bayan Har thuộc dãy núi Côn Lôn trên cao nguyên Thanh Tạng phía tây tỉnh Thanh Hải. Sông đổ ra Bột Hải gần thành phố Đông Dinh của tỉnh Sơn Đông.
Tên gọi
Trong các tài liệu chữ Hán cổ, sông Hoàng Hà được gọi là 河 (âm Hán Việt: Hà; tiếng Hán cổ: *C.gˤaj). Tên gọi 黃河 (âm Hán Việt: Hoàng Hà; tiếng Hán cổ: *N-kʷˤaŋ C.gˤaj; tiếng Hán trung cổ: Hwang Ha) lần đầu tiên xuất hiện trong Hán thư của thời kỳ nhà Tây Hán (206 TCN - 9). Chữ 黃 Hoàng mang nghĩa màu vàng, ám chỉ nước sông có màu vàng do chứa nhiều vật liệu từ đất vàng (hay hoàng thổ).
Một tên gọi cổ khác của sông trong tiếng Mông Cổ là 'Hắc Hà', vì dòng sông trong trước khi vào cao nguyên Hoàng Thổ, nhưng tên hiện tại ở Nội Mông là Ȟatan Gol (Хатан гол, 'Dòng Sông Hoàng Hậu'). Ở Mông Cổ, nó được gọi là Šar Mörön (Шар мөрөн, 'Hoàng Hà').
Tại Thanh Hải, tên gọi sông trong tiếng Tây Tạng là 'Sông Công' (tiếng Tây Tạng: རྨ་ཆུ།, Ma Chu; tiếng Trung: giản thể 玛曲, phồn thể 瑪曲, p Mǎ Qū).
Tên tiếng Anh Hwang Ho là cách viết Latin hóa của tên Hoàng Hà trên bản đồ.
Lưu vực
Sông Hoàng Hà bắt nguồn từ dãy núi Côn Lôn ở phía tây bắc tỉnh Thanh Hải, từ độ cao 4.500 m trong lòng chảo Yekuzonglie, nằm ở phía bắc dãy núi Bayankara (hay Ba Nhan Khách Lạp) trên cao nguyên Thanh Tạng.
Từ nguồn gốc của nó, dòng sông chảy về phía nam, sau đó uốn cong về phía đông nam và lại tiếp tục chảy về phía nam cho đến khi đến thành phố Lan Châu, thủ phủ tỉnh Cam Túc, nơi bắt đầu điểm uốn lớn về phía bắc. Dòng sông tiếp tục chảy về phía bắc qua Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ, tiến vào khu tự trị Nội Mông, đoạn uốn cong này được gọi là Hà Sáo. Sau đó, sông lại thay đổi hướng, chảy gần như thẳng về phía nam, tạo thành ranh giới giữa tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây. Khoảng 130 km về phía đông bắc thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây, sông Hoàng Hà tiếp tục chuyển hướng về phía đông, chảy qua các vùng đất trũng ven biển miền đông Trung Quốc gần thành phố Khai Phong. Sau đó, sông đi qua Tế Nam, thủ phủ tỉnh Sơn Đông và đổ ra biển Bột Hải.
Chi lưu
- Sông Bạch Hà
- Sông Hắc Hà
- Sông Hoàng Thủy
- Sông Tổ Lệ
- Sông Thanh Thủy
- Sông Đại Hắc
- Sông Quật Dã
- Sông Vô Định
- Sông Phần
- Sông Vị
- Sông Lạc
- Sông Thấm
- Sông Đại Vấn
Các đập thủy điện


Dưới đây là danh sách các nhà máy thủy điện được xây dựng trên sông Hoàng Hà, sắp xếp theo năm bắt đầu hoạt động:
- Đập Tam Môn Hiệp (1960; tỉnh Hà Nam)
- Nhà máy thủy điện Tam Thịnh Công (1966)
- Đập Thanh Đồng (1968; Thanh Đồng Hạp, Khu tự trị Ninh Hạ)
- Đập Lưu Gia Hiệp (1974; Vĩnh Tĩnh, tỉnh Cam Túc)
- Đập Diêm Oa Hiệp (1975; Vĩnh Tĩnh, tỉnh Cam Túc)
- Nhà máy thủy điện Thiên Kiều (1977)
- Đập Bát Bàn Hiệp (1980; Tây Cố, thành phố Lan Châu, tỉnh Cam Túc)
- Đập Long Dương Hiệp (1992; Cộng Hòa, tỉnh Thanh Hải)
- Đập Đại Hiệp (1998)
- Đập Lý Gia Hiệp (1999; Jainca, tỉnh Thanh Hải)
- Đập Vạn Gia Trại (1999; Thiên Quan, tỉnh Thiểm Tây và Nội Mông)
- Đập Tiểu Lãng Để (2001; Tế Nguyên, tỉnh Hà Nam)
- Đập Lạp Tây Ngõa (2010; Quý Đức, tỉnh Thanh Hải)
Theo báo cáo năm 2000, bảy nhà máy thủy điện lớn nhất (Long Dương Hiệp, Lý Gia Hiệp, Lưu Gia Hiệp, Diêm Oa Hiệp, Bát Bàn Hiệp, Đại Hiệp và Thanh Đồng) có tổng công suất lắp đặt là 5.618 MW.
Ảnh hưởng đối với đời sống nhân dân
Hoàng Hà tưới tiêu cho khu vực rộng lớn lên đến 944.970 km² (364.417 dặm²). Tuy nhiên, do đặc điểm khô hạn của vùng này (khác biệt với các khu vực phía đông thuộc Hà Nam và Sơn Đông), lưu lượng nước của con sông khá khiêm tốn. So với sông Trường Giang, lưu lượng của Hoàng Hà chỉ bằng 1/15 và chỉ bằng 1/5 so với sông Châu Giang, mặc dù diện tích tưới tiêu của sông Châu Giang chưa bằng một nửa so với Hoàng Hà.
Trong lịch sử hàng ngàn năm của Trung Quốc, Hoàng Hà vừa là nguồn lợi ích vừa là mối họa cho người dân, nên nó được gọi là 'Niềm tự hào của Trung Quốc' (pinyin: Zhōngguó de Jiāoào) và 'Nỗi đau của Trung Quốc' (pinyin: Zhōngguó de Tòng). Ghi chép cho thấy từ năm 602 đến nay, con sông đã ít nhất 26 lần đổi dòng (trong đó có 5 lần thay đổi lớn) và các đê bao quanh đã vỡ hoặc tràn không dưới 1.500 lần. Sự thay đổi dòng vào năm 1194 đã phá vỡ hệ thống tưới tiêu của sông Hoài trong gần 700 năm. Phù sa từ Hoàng Hà đã làm tắc nghẽn sông Hoài, dẫn đến sự mất nhà của hàng ngàn người. Mỗi lần đổi dòng, con sông có thể đổ ra Hoàng Hải hoặc vịnh Bột Hải. Hoàng Hà chỉ có dòng chảy hiện tại từ năm 1897, sau lần đổi dòng cuối cùng vào năm 1855.
Trong thế kỷ 20, Hoàng Hà đã mang ra biển khoảng 0,9x10⁹ tấn trầm tích mỗi năm. Màu nước vàng đặc trưng của sông là do lượng phù sa cao, với mức trầm tích lên tới 34 kg/1 mét khối nước, gấp 34 lần so với sông Nile ở châu Phi. Hàng thế kỷ bồi đắp và hệ thống đê điều đã làm cho con sông chảy cao hơn so với mặt đất nông nghiệp hai bên bờ, làm gia tăng nguy cơ ngập lụt. Các trận lũ lớn của Hoàng Hà đã gây ra thảm họa khủng khiếp trong lịch sử, như trận lũ năm 1887 đã khiến khoảng 900.000-2.000.000 người thiệt mạng và trận lũ năm 1931 đã cướp đi sinh mạng của khoảng 1.000.000-3.700.000 người. Trận lũ năm 1931 được xem là thảm họa thiên nhiên tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới, với khoảng 3,7 triệu người thiệt mạng. Trong Chiến tranh Trung-Nhật năm 1938, quân đội Tưởng Giới Thạch đã phá vỡ đê bao Hoàng Hà để ngăn quân Nhật, làm ngập lụt một khu vực rộng lớn và khiến khoảng 500.000-900.000 người thiệt mạng.
Hoàng Hà đôi khi được gọi là 濁流 (Troọc Lưu), có nghĩa là dòng nước đục. Thành ngữ Trung Quốc 'Khi nước Hoàng Hà trong' dùng để chỉ điều không bao giờ xảy ra.
Ngày nay, tình trạng khô hạn do số lượng đập nước dày đặc trên sông Hoàng Hà đã trở thành mối lo ngại lớn đối với nông nghiệp và hệ sinh thái của khu vực đồng bằng Hoa Bắc.
Hai tỉnh Hà Bắc và Hà Nam được đặt tên dựa trên vị trí của chúng so với sông Hoàng Hà, với tên gọi mang ý nghĩa 'bắc' và 'nam' của con sông.
Những thành phố quan trọng dọc theo sông Hoàng Hà từ nguồn gốc đến hạ lưu bao gồm: Lan Châu (tỉnh Cam Túc), Ô Hải, Bao Đầu, Khai Phong và Tế Nam.
Hình ảnh




—thác nước lớn thứ hai tại Trung Quốc



Xem thêm
Bằng tiếng Anh:
- Sinclair, Kevin. 1987. Hoàng Hà: 5.000 năm khám phá Trung Quốc. (Dựa trên tài liệu truyền hình). Child & Associates Publishing, Chatswood, Sydney, Australia. ISBN 0-86777-347-2
- Đại Vận Hà
- Địa lý Trung Quốc
- Đồng bằng Hoa Bắc
- Cao nguyên hoàng thổ
- Danh sách các sông lớn ở châu Á
- Danh sách các sông ở Trung Quốc
Ghi chú
- Sinclair, Kevin. 1987. Hoàng Hà: Hành Trình 5.000 Năm Qua Trung Quốc. (Dựa trên tài liệu truyền hình). Child & Associates Publishing, Chatswood, Sydney, Australia. ISBN 0-86777-347-2
Các liên kết ngoài
Các sông chính của Trung Quốc | |
---|---|
Bảy con sông lớn nhất Đông Trung Quốc Trường Giang · Hoàng · Châu Giang · Hắc Long Giang · Hoài · Hải · Liêu | |
Hệ thống Trường Giang |
|
Hệ thống sông Hoàng Hà |
|
Hệ thống Châu Giang |
|
Hệ thống Hắc Long Giang |
|
Hệ thống sông Hoài |
|
Hệ thống sông Hải |
|
Hệ thống sông Liêu |
|
Sông chính khác |
|
Kênh đào chính |
|