
Mê Kông (Cửu Long) | |
Megaung Myit (မဲခေါင်မြစ်), แม่น้ำโขง (Maenam Khong), ແມ່ນ້ຳຂອງ, Mékôngk, Tonle Thom (ទន្លេដ៏ធំ, ទន្លេមេគង្គ), Cửu Long (九龍), 湄公 (Méigōng) hay 瀾滄 (Lán cāng), ទន្លេរមេគង្គ | |
Sông | |
Quốc gia | Trung Quốc Myanmar Thái Lan Lào Campuchia Việt Nam |
---|---|
Nguồn | Suối Lạp Tái Cống Mã |
- Vị trí | Núi Quả Tông Mộc Tra, Thanh Hải, Trung Quốc |
- Cao độ | 5.224 m (17.139 ft) |
- Tọa độ | |
Cửa sông | đồng bằng sông Cửu Long |
- cao độ | 0 m (0 ft) |
Chiều dài | 4.350 km (2.700 mi) |
Lưu vực | 795.000 km (307.000 dặm vuông Anh) |
Lưu lượng | tại biển Đông |
- trung bình | 16.000 m/s (570.000 cu ft/s) |
- tối đa | 39.000 m/s (1.400.000 cu ft/s) |
Bản đồ lưu vực sông Mekong |

Sông Mê Kông là một trong những con sông vĩ đại nhất toàn cầu, bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng thuộc tỉnh Thanh Hải, chảy qua Vân Nam ở Trung Quốc, rồi tiếp tục qua các quốc gia Lào, Myanmar, Thái Lan, Campuchia trước khi đổ ra Biển Đông tại Việt Nam.
Về độ dài, sông đứng thứ 12 trên thế giới (thứ 7 ở châu Á), và về lưu lượng nước, sông đứng thứ 10 toàn cầu (với lưu lượng hàng năm khoảng 475 tỉ m³). Lưu lượng trung bình đạt 13.200 m³/s, và có thể lên tới 30.000 m³/s trong mùa lũ. Lưu vực của sông rộng khoảng 795.000 km² (theo Ủy hội sông Mê Kông) hoặc hơn 810.000 km² (theo Encyclopaedia Britannica 2004).
Ủy hội sông Mê Kông là cơ quan liên chính phủ có nhiệm vụ 'thúc đẩy và phối hợp quản lý, phát triển tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan một cách bền vững vì lợi ích chung và sự an sinh của cộng đồng', bao gồm các quốc gia Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam, trong khi Myanmar và Trung Quốc đóng vai trò là đối tác.
Giao thông đường thủy trên sông Mê Kông gặp nhiều thách thức do sự thay đổi mạnh mẽ của dòng chảy theo mùa, các đoạn nước chảy xiết và các thác nước cao. So với tiềm năng khổng lồ nếu được khai thác hợp lý, hiện nay chỉ một phần nhỏ của sông được sử dụng cho việc dẫn thủy nhập điền và sản xuất năng lượng thủy điện. Dù vậy, sự biến động của nước lũ mang lại nhiều lợi ích, với biên độ dao động lớn (khoảng 30 lần giữa mùa khô và mùa lũ) rất thuận lợi cho việc trồng lúa nước trên diện rộng.
Một đặc điểm nổi bật về thủy năng của sông Mê Kông là khả năng điều chỉnh dòng nước của hồ Tonlé Sap - hồ tự nhiên lớn nhất Đông Nam Á, mà người Việt thường gọi là 'Biển Hồ'.
Dòng chảy

Nguồn gốc sông Mê Kông có hai nhánh: nhánh phía bắc là sông Trát A Khúc và nhánh phía nam là sông Trát Na Khúc. Nhánh phía nam nổi bật hơn, gần đèo Long Mô (龍模) với chiều dài 87,75 km. Nhánh phía bắc bắt nguồn từ rặng núi Quả Tông Mộc Tra. Nhánh này, từ độ cao 5.224 mét - kinh tuyến đông 94°41'44', vĩ tuyến bắc 33°42'41', gồm hai nhánh phụ dài 91,12 km và 89,76 km.
Hệ thống sông ngòi ở nguồn sông Mê Kông bao gồm: hệ thống Trát A Khúc và hệ thống Trát Na Khúc. Hai nhánh này hợp lưu tại Ca Nạp Tùng Đa (尕納松多) cao 4.360 mét, tọa độ 94°36′40″Đ, 33°12′33″B, cách huyện Tạp Đa, Ngọc Thụ, Thanh Hải 106,9 km về phía tây bắc.
Sông Trát A Khúc được đo rộng 62 mét, với độ sâu trung bình 0,72 mét, lưu tốc trung bình 2,63 m/s, và lưu lượng 117,4 m³/s; trong khi sông Trát Na Khúc rộng hơn 51 mét, độ sâu trung bình 0,35 mét, lưu tốc trung bình 1,81 m/s, và lưu lượng 32,3 m³/s.
Nguồn sông đã được xác định rõ qua các cuộc thám hiểm gần đây. Vào năm 1994, một phái đoàn Trung Quốc và Nhật Bản đã đến nguồn phía Bắc cùng lúc với phái đoàn Pháp, do M. Peissel dẫn đầu, đến nguồn phía tây với mục đích chứng minh nguồn chính của sông Mê Kông. Các cuộc thám hiểm sau đó đến năm 1999, phối hợp giữa Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản, đã xác minh chính thức nguồn sông Mekong thuộc nhánh bắc, với độ dài dao động từ 4.200 km đến 4.850 km.
Các nhà khoa học khảo sát, sau khi phân tích kỹ lưỡng dữ liệu của hai nhánh sông, đã công nhận rằng sông Trát A Khúc chính là nguồn gốc của sông Mê Kông.
Ngày nay, khu vực bắt nguồn của sông Mekong, cùng với sông Trường Giang và sông Salween (Nộ Giang), tạo thành khu bảo tồn Tam Giang Tịnh Lưu ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
Gần một nửa chiều dài của sông này chảy qua lãnh thổ Trung Quốc, nơi đoạn đầu nguồn được gọi là Dza Chu trong tiếng Tây Tạng, tức Trát Khúc (扎曲; bính âm: Zā Qū). Tại Trung Quốc, sông còn được gọi là Lan Thương Giang (瀾滄江; bính âm: Láncāng Jiāng; Wade-Giles: Lan-ts'ang Chiang), có nghĩa là 'con sông cuộn sóng'. Trát Khúc kết hợp với một nhánh khác là Ngang Khúc (橫曲; bính âm: Áng Qū) gần Xương Đô (昌都; bính âm: Chāngdū) để tạo thành Lan Thương Giang. Đoạn sông này chủ yếu chảy qua các hẻm núi sâu, ra khỏi Trung Quốc, con sông chỉ còn ở độ cao khoảng 500 m so với mực nước biển.
Tiếp theo, sông Mê Kông dài khoảng 200 km hình thành biên giới giữa Myanmar và Lào. Tại điểm cuối của biên giới, ở Tam giác Vàng, sông hợp lưu với sông Ruak, và đây cũng là điểm phân chia giữa phần Thượng và phần Hạ của sông Mê Kông.
Sông Mê Kông sau đó trở thành biên giới giữa Lào và Thái Lan, trước khi tiếp tục chảy vào đất Lào tại tỉnh Bokeo. Người Lào và người Thái gọi sông là Mènam Khong (Mè có nghĩa là mẹ, nam là sông, tức 'sông mẹ', tương tự như 'sông cái' trong cách gọi sông lớn của người Việt cổ), và đây là nguồn gốc của tên quốc tế 'Mekong' hiện nay sau khi bỏ từ 'nam'. Người Việt Nam gọi là Sông Khung.
Khu vực sông Mê Kông ở Lào nổi bật với các hẻm núi sâu, dòng chảy mạnh mẽ và những vũng nước nông chỉ khoảng nửa mét vào mùa khô. Khi tiếp nhận dòng Nam Ou từ Phongsaly đổ vào Pak Ou gần Luang Prabang, sông mở rộng ra với bề rộng có thể lên tới 4 km và độ sâu đạt 100 mét, dù dòng chảy vẫn rất biến động.
Sông Mekong tiếp tục tạo thành biên giới giữa Lào và Thái Lan, từ Viêng Chăn đến tỉnh Champasack. Từ phía đông, sông Se Bangfai đổ vào Mekong tại ranh giới giữa tỉnh Savannakhet và Khammouan, trong khi dòng Se Banghiang nhập vào tại Muang Songkhone, Savannakhet. Từ phía Thái Lan, phụ lưu Mènam Mun dài 750 km đổ vào Mekong tại Khong Chiam thuộc Ubon Ratchathani, Thái Lan.
Sông Mê Kông tiếp tục chảy một đoạn ngắn trên đất Lào, nơi dòng Xe Don nhập vào tại Pak Se. Ở cực nam Lào tại tỉnh Champasack, sông bao gồm khu vực Si Phan Don (bốn ngàn đảo) gần thác Khone, gần biên giới Campuchia. Thác Khone dài 15 km, cao 18 m, hùng vĩ và gần như không thể vượt qua bằng đường thủy.
Tại Campuchia, sông Mê Kông được gọi là sông Mékôngk (theo ngôn ngữ thiểu số gốc Lào) hoặc Tông-lê Thơm (sông lớn, theo tiếng Khmer). Ở tỉnh Stung Treng, dòng Tonlé San nhập vào sông. Tonlé San là hợp lưu của các dòng Se Kong từ Nam Lào, và sông Sê San (Tonlé San) và sông Srêpốk (Tonlé Srepok) từ Tây Nguyên Việt Nam chảy đến.
Khu vực nước chảy xiết (ghềnh) Sambor phía trên Kratie là trở ngại cuối cùng cho giao thông trên sông.
Trên đoạn sông Mê Kông chảy qua Phnom Penh, nó gặp sông Tonlé Sap, một nhánh quan trọng ở Campuchia. Trong mùa lũ, nước từ sông Mê Kông tràn ngược vào hồ Tonlé Sap.
Từ Phnom Penh trở đi, sông Mê Kông phân thành hai nhánh chính: nhánh bên phải gọi là sông Ba Thắc (hay còn gọi là Hậu Giang
Tất cả chín nhánh lớn của sông Mê Kông tại Việt Nam được tập hợp lại và gọi chung là sông Cửu Long.



Danh sách các tên địa phương của sông bao gồm:
- Theo ngữ chi Thái:
- Tiếng Thái: แม่น้ำโขง, [mɛ̂ː náːm kʰǒːŋ] hoặc đơn giản là 'แม่โขง' [mɛ̂ː kʰǒːŋ].
- Tiếng Lào: ແມ່ນ້ຳຂອງ, [mɛː nâːm kʰɔːŋ], hoặc ນ້ຳຂອງ [nâːm kʰɔːŋ].
- Tiếng Lự: น้ำแม่ของ Phát âm tiếng Thái: [nâːm mɛː kʰɔ̌ːŋ]
- Tiếng Shan: ၼမ်ႉၶွင် [nâm.kʰɔ̌ŋ] hoặc ၼမ်ႉမႄႈၶွင် [nâm.mɛ.kʰɔ̌ ŋ].
- Khác:
- Tiếng Việt: Sông Mê Kông (IPA: [ʂə̄wŋm mē kə̄wŋm]) hoặc Sông Cửu Long (九龍 Cửu Long Giang [ʂə̄wŋm kɨ̂w lāwŋm]).
- Tiếng Miến Điện: မဲခေါင်မြစ်, IPA: [mɛ́ɡàʊɰ̃ mjɪ̰ʔ]
- Tiếng Trung: 湄公河; Méigōng hé.
- Tiếng Khmer: មេគង្គ Mékôngk [meːkɔŋ], ទន្លេមេគង្គ Tônlé Mékôngk [tɔnlei meikɔŋ] hoặc ទន្លេធំ Tônlé Thum [tɔnlei tʰum] (tạm dịch: 'Sông lớn').
- Khmuic: [ŏ̞m̥ kʰrɔːŋ̊], 'ŏ̞m̥' nghĩa là 'sông' hoặc 'nước', ở đây chỉ 'sông', 'kʰrɔːŋ̊' có nghĩa là 'kênh'. Do đó, 'ŏ̞m̥ kʰrɔːŋ̊' có nghĩa là 'kênh sông'. Trong quá khứ, người Khmuic gọi nó là '[ŏ̞m̥ kʰrɔːŋ̊ ɲă̞k̥]' hoặc '[ŏ̞m̥ kʰrɔːŋ̊ ɟru̞ːʔ]' có nghĩa là 'sông kênh khổng lồ' hoặc 'sông kênh sâu'.
Các phụ lưu
- Sông Ruak bắt nguồn từ bang Shan, Myanmar, chảy đến vùng Tam giác vàng, với cửa sông là biên giới Myanmar - Thái Lan.
- Nam Ou bắt nguồn từ Vân Nam, Trung Quốc, chảy qua tỉnh Phongsaly, đổ vào sông Mê Kông tại Muang Pak Ou, cách Luang Prabang khoảng 15 km. Một nhánh nhỏ thượng lưu là Nậm Nứa, bắt nguồn từ xã Nứa Ngam, tỉnh Điện Biên, Việt Nam, khi vào Lào trở thành Nam Neua, đến Muang Khua (Mường Khoa) đổ vào Nam Ou. Ở thung lũng Mường Thanh, có nhánh nhỏ Nậm Rốm đổ vào Nậm Nứa tại bản Pa Nậm.
- Nam Ngum (Nậm Ngừm) dài 354 km, bắt nguồn từ vùng núi phía bắc tỉnh Xiengkhuang, chảy về phương nam qua tỉnh Viêng Chăn, đổ vào Mê Kông ở phía nam thành phố Vientiane.
- Nam Theun (Nậm Thơn), đoạn cuối của nó được gọi là Nam Kading, bắt nguồn từ dãy Trường Sơn ở biên giới Lào - Việt tại tỉnh Khammouan (gần huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam). Dòng chảy uốn lượn, đổ vào Mê Kông tại Muang Pak Kading, tỉnh Bolikhamxai.
- Se Bangfai bắt nguồn từ dãy Trường Sơn ở biên giới Lào - Việt tại Muang Bualapha, tỉnh Khammouan (gần xã Lâm Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam), đổ vào Mekong tại ranh giới tỉnh Savannakhet và Khammouan.
- Se Banghiang bắt nguồn từ dãy Trường Sơn ở xã Hướng Lập, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, Việt Nam, chảy qua biên giới Lào - Việt ở tỉnh Savannakhet, đổ vào Mekong gần thành phố Savannakhet. Một phụ lưu của Se Banghiang là sông Sê Pôn, bắt nguồn từ Lao Bảo, Việt Nam.
- Mènam Mun dài 750 km, đổ vào Mekong tại Khong Chiam, thuộc Ubon Ratchathani, Thái Lan.
- Se Don là phụ lưu chảy qua tỉnh Champasack, đổ vào Mekong tại Pak Se.
- Se Kong là phụ lưu cấp 2 ở đông nam Lào. Se Kong bắt nguồn từ phía tây huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam, với tên Xê Asap. Se Kong chảy qua tỉnh Sekong và Attapeu của Lào, đến biên giới phía nam. Tại đây có một nhánh là Se Kaman, bắt nguồn từ dòng Đăk P'Lô ở xã Đăk P'Lô, huyện Đăk Glei, tỉnh Kon Tum, Việt Nam. Ở Lào, Se Kaman chảy qua huyện biên giới Muang Dak Cheung đến Muang Xaysetha, Attapeu rồi nhập vào Se Kong. Sang Campuchia, Se Kong được gọi là Tonlé Kong, hợp lưu với Tonlé San ở Hang Savat, gần tỉnh lỵ Stung Treng, tạo thành đoạn ngắn 8 km rồi đổ vào sông Mekong.
- Hai phụ lưu cấp 2 quan trọng khác từ Tây Nguyên, Việt Nam là sông Sê San (Tonlé San) và sông Srêpốk (Tonlé Srepok), hợp lưu nhau trên lãnh thổ Campuchia tại khu vực Stung Treng, sau đó hợp với Se Kong rồi đổ vào Mekong.
- Tonlé Sap là sông có lưu vực rộng lớn chiếm phần lớn lãnh thổ Campuchia ở trung và tây bắc, cùng với Biển Hồ, đổ vào Mekong ở phía trên Phnôm Pênh.
Lịch sử
Khó khăn trong việc vận chuyển thủy của con sông này đã làm cắt đứt sự kết nối giữa người dân hai bên bờ, thay vì gắn kết họ lại. Nền văn minh đầu tiên được biết đến là nền văn hóa Mã Lai, chịu ảnh hưởng Ấn Độ từ thế kỷ 1, thuộc Vương quốc Phù Nam trong lưu vực sông Mê Kông. Khai quật tại Óc Eo, gần Rạch Giá hiện nay, đã phát hiện những đồng tiền thuộc Đế chế La Mã. Vương quốc Phù Nam trong thời kỳ đầu không thể nào tiếp xúc với Trung Quốc do những cơn lũ từ sông, chỉ đến khi xây dựng đập trên sông Mê Kông thì giao thương mới phát triển. Năm 1900, Pháp bắt đầu đầu tư vào công trình và các kênh đào, sau đó một số phụ lưu của sông được khai thác cho giao thông. Lịch sử cận đại liên quan đến những căng thẳng giữa các nước như Việt Nam, Lào, Thái Lan và Campuchia về quyền lợi trên sông Mê Kông, chủ yếu là vấn đề phân phối nước và sự quản lý các con đập. Các căng thẳng quốc tế về quyền lợi và khai thác của sông Mê Kông đã dẫn đến việc thành lập Ủy hội sông Mê Kông (MRC), một cơ quan liên chính phủ vào năm 1995 nhằm giải quyết các tranh chấp và quản lý nguồn nước chung của sông.
Người châu Âu đầu tiên đặt chân đến sông Mê Kông là Antonio de Faria, một nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha vào năm 1540. Vào năm 1563, bản đồ châu Âu đã ghi lại hình ảnh con sông, dù chỉ là một phần nhỏ ở đồng bằng châu thổ. Mục đích của các cuộc thám hiểm châu Âu không đồng nhất: người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha chủ yếu thám hiểm để truyền giáo và thương mại, trong khi Gerrit van Wuysthoff người Hà Lan đã dẫn dắt một đoàn thám hiểm đến Viêng Chăn vào năm 1641-1642.
Người Pháp đặc biệt quan tâm đến khu vực sông Mê Kông vào giữa thế kỷ 19, sau khi chiếm Sài Gòn vào năm 1861 và thiết lập sự bảo hộ Campuchia vào năm 1863.
Cuộc thám hiểm đầu tiên có hệ thống của sông Mê Kông diễn ra từ năm 1866 đến 1868, do hai nhà thám hiểm người Pháp là Ernest Doudart de Lagrée và Francis Garnier thực hiện. Họ phát hiện rằng sông Mê Kông có quá nhiều thác và đoạn chảy xiết, không thuận lợi cho giao thông đường thủy.
Từ năm 1893, người Pháp mở rộng quyền kiểm soát sông Mê Kông đến tận Lào qua việc thành lập Liên bang Đông Dương vào những năm đầu thế kỷ 20. Quyền kiểm soát này chấm dứt sau khi Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúc và sự can thiệp của người Mỹ vào khu vực.
Sau Chiến tranh Việt Nam, sự bất đồng giữa Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc đã làm giảm sự hợp tác trong việc khai thác tiềm năng của sông Mê Kông. Tuy nhiên, hiện tại các quốc gia đã bắt đầu hợp tác chặt chẽ hơn về vấn đề này.












Khối lượng dòng chảy
Sông Mê Kông có lưu lượng ròng hàng năm đạt 475 tỉ mét khối, đứng thứ hai trong số các sông ở Đông Nam Á, chỉ sau sông Ayeyarwady với lưu lượng ròng hàng năm là 486 tỉ mét khối.
Nguồn nước chính của sông Mê Kông đến từ mưa trong khu vực lưu vực và nước tan từ các dãy núi tuyết, với mưa đóng góp hơn một nửa lưu lượng ròng, còn nước từ núi tuyết chiếm khoảng một phần sáu.
Ảnh hưởng của gió mùa làm cho mực nước và lưu lượng dòng chảy của sông Mê Kông đạt đỉnh vào mùa mưa, từ cuối tháng 5 đến tháng 10. Mùa mưa bắt đầu vào tháng 5, mực nước dâng cao, với đỉnh lũ từ tháng 9 đến tháng 10, đạt lưu lượng tối đa lên đến 75.700 m³/s.
Khu vực bị ngập lụt chủ yếu nằm ở đồng bằng châu thổ, với diện tích khoảng 4 triệu hécta. Tuy nhiên, nhờ có hồ Tonlé Sap điều tiết, mức độ ngập lụt đã được giảm thiểu.
Từ tháng 1 đến tháng 2, nước sông Mê Kông thường ở mức thấp, với lưu lượng tối thiểu khoảng 1.250 m³/s.
Sông Mê Kông sở hữu một chuỗi đảo kéo dài khoảng 50 kilômét gần biên giới Lào và Campuchia. Vào mùa mưa, đoạn sông này rộng nhất đạt 14 kilômét, tạo thành một 'eo' rộng lớn nhất của sông. Trong mùa khô, khi nước rút, hàng trăm đảo nhỏ sẽ xuất hiện trong khu vực này. Nếu tính cả các bãi cạn, tổng số đảo có thể lên đến hơn một ngàn. Người dân địa phương gọi khu vực này là Si Phan Don, nghĩa là 'bốn ngàn đảo'.
Đồng bằng sông Cửu Long là một đồng bằng bồi tích được hình thành từ hàng nghìn năm do phù sa của sông Mê Kông, với độ cao hầu như đồng đều. Vào cuối mùa khô, lưu lượng sông giảm, ảnh hưởng của thuỷ triều từ biển Đông trở nên rõ rệt. Mực nước tại Vàm Kênh và Tiền Giang gần cửa sông thay đổi khoảng 3m, tại cầu Mỹ Thuận cách cửa sông 100km thay đổi từ 2 đến 2,5m, và tại Châu Đốc cách cửa sông 200km thay đổi khoảng 1m. Sự thay đổi này là do tác động của thuỷ triều, đặc trưng cho sự ảnh hưởng mạnh mẽ của thuỷ triều trên sông.
Lưu lượng trung bình hàng tháng được đo tại trạm quan trắc Pakxe (m/s)
(trung bình hàng năm là 9000 m/s)

Lưu vực
Sông Mê Kông là con sông dài nhất Đông Nam Á, với tổng chiều dài lên tới 4.350 kilômét và diện tích lưu vực là 795.000 kilômét vuông. Nó đứng thứ mười hai trong danh sách các sông dài nhất thế giới và đứng thứ bảy ở châu Á.
Sông Mê Kông bắt nguồn từ tỉnh Thanh Hải, Trung Quốc, chảy qua các khu vực Tây Tạng và Vân Nam. Sau đó, nó hình thành ranh giới quốc tế giữa Myanmar và Lào, rồi tiếp tục chia cắt Lào với Thái Lan, xuyên qua Campuchia và Việt Nam trước khi đổ vào biển Đông qua hệ thống đồng bằng sông Cửu Long.
Thủ đô Viêng Chăn của Lào và thủ đô Phnôm Pênh của Campuchia đều nằm bên bờ sông Mê Kông.
Khoảng ba phần tư diện tích lưu vực sông Mê Kông nằm ở năm quốc gia: Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam, nơi con sông chảy qua.
Đoạn sông Mê Kông, sau khi rời khỏi biên giới Trung Quốc, chiếm 79,3% tổng diện tích lưu vực của sông Mê Kông - Lan Thương. Đoạn này bao phủ hầu như toàn bộ Lào, Campuchia và phần lớn Thái Lan, với khu vực tam giác châu ở Việt Nam có gradient bỉ giáng trung bình khoảng 0,16‰.
Sông Mê Kông là con sông quốc tế lớn thứ hai đổ vào biển Đông thuộc Thái Bình Dương, chỉ sau sông Amur đổ vào biển Okhotsk ở Thái Bình Dương.
Các chi lưu chính của sông Mê Kông bao gồm sông Nam Tha, sông Nam Ou, sông Nam Khan, sông Nam Ngum, sông Nam Theun, sông Bang Fai, sông Bang Hiang, sông Mun, sông Sê San, sông Tonlé Sap,... trong đó sông Mun là chi lưu lớn nhất.
Diện tích lưu vực
Sông Mê Kông có 22 chi lưu với diện tích lưu vực lớn hơn 5.000 kilômét vuông. Diện tích lưu vực của sông Cửu Long ở Việt Nam là 65.000 kilômét vuông, với lưu lượng trung bình hàng năm đạt 1.660 m/s.
Quốc gia | Diện tích lưu vực trong lãnh thổ
(km) |
Lưu lượng trung bình hằng năm
(m/s) |
---|---|---|
Trung Quốc | 164.800 | 2.140
*Thuỷ lượng xuất cảnh trung bình hằng năm là 76,5 tỉ m. |
Myanmar | 24.000 | 300 |
Lào | 202.000 | 5.270 |
Thái Lan | 184.000 | 2.560 |
Campuchia | 155.000 | 2.860 |
Việt Nam | 65.000 | 1.660 |
Các quốc gia Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam ở hạ lưu sông Mê Kông đã cùng nhau thành lập Ủy hội sông Mê Kông.
Dân số lưu vực
Khoảng 1/3 dân số của bốn quốc gia ven sông sinh sống ở lưu vực hạ du. Hầu hết đều làm nông nghiệp, với lúa nước là cây trồng chủ yếu. Khu vực đông dân nhất nằm ở đồng bằng sông Cửu Long và cao nguyên Khorat. Một số khu vực đô thị đang tăng nhanh do di cư. Lưu vực sông Mê Kông có sự đa dạng về chủng tộc, từ người Karen và H'Mông ở thượng du đến người Khmer, Chăm, Thái và Môn ở hạ du. Người Việt chủ yếu sống ở tam giác châu, còn người Khmer và người Thái phân bố rộng rãi hơn ở lưu vực hạ du.
Đặc điểm địa lý tự nhiên

Theo nghiên cứu của Hiệp hội Thám hiểm Khoa học Trung Quốc (CASE), sông Mê Kông bắt nguồn từ suối Lạp Tái Công Mã, có độ cao 5.224 mét so với mực nước biển. Suối này nằm trên núi Quả Tông Mộc Tra ở tỉnh Thanh Hải và được xác nhận là nguồn gốc của sông Mê Kông bởi Viện Khoa học Trung Quốc. Tuy nhiên, một đoàn thám hiểm do Michel Peissel dẫn đầu vào năm 1994 xác định sông Trát Na Khúc, nằm xa về phía tây tại đèo Rupsa (cao 4.975 mét), là nơi bắt nguồn của sông Mê Kông.
Diện tích lưu vực sông Mê Kông khoảng 795.000 km², trải dài từ cao nguyên Thanh Tạng đến biển Đông. Trong 1.955 km đầu của dòng sông, lòng sông bị thu hẹp đáng kể, khiến cho trạng thái tự nhiên ở thượng du và hạ du có sự khác biệt rõ rệt sau khi sông chảy ra khỏi cao nguyên Vân Nam, dẫn đến sự phân chia thành hai phần chính.
Thượng du sông Mê Kông là một thung lũng dài và hẹp, chiếm khoảng 1/4 tổng diện tích lưu vực. Nó cắt xuyên qua dãy núi và cao nguyên ở Trung Quốc. Hạ du sông Mê Kông, bắt đầu từ điểm hình thành biên giới giữa Myanmar và Lào, dài 2.390 km. Nó đi qua cao nguyên Khorat ở Thái Lan, sườn phía tây dãy núi Trường Sơn, và phần lớn khu vực Campuchia. Sau đó, sông chảy qua đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam trước khi đổ vào biển Đông.
Sông Mê Kông ở thượng du là một phần của cụm sông bắt nguồn từ cao nguyên giữa sông Thanlwin và sông Trường Giang. Lòng sông cắt sâu vào vùng địa hình gập ghềnh mà nó đi qua. Tại miền trung Lào và Myanmar, khoảng 20.720 km² lãnh thổ Myanmar thuộc lưu vực sông Mê Kông, toàn là vùng gập ghềnh. Phần hạ du của sông Mê Kông có độ dốc nhẹ hơn, tạo thành một đoạn biên giới dài giữa Lào và Thái Lan, đây là nguyên nhân chính gây ra xung đột và hợp tác giữa Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam.
Cấu trúc địa hình
Sông Lan Thương - nguồn gốc của sông Mê Kông
Sông Lan Thương, với hướng chảy từ bắc xuống nam, đi qua tất cả các loại cảnh quan tự nhiên và khí hậu trên thế giới trừ sa mạc và bán sa mạc Gobi. Lưu vực sông này, đặc biệt là đoạn chảy qua Vân Nam, là nơi sinh sống của nhiều sắc tộc. Ở đây có 16 dân tộc như người Thái, người Bạch, người Bố Y, và người Lô Lô, trong đó các dân tộc xuyên biên giới như Thái, Bố Y và Derung mang nhiều bản sắc văn hóa riêng, hòa quyện với môi trường địa phương.
Khu vực đầu nguồn sông Lan Thương, nằm trên huyện Tạp Đa, tỉnh Thanh Hải, có độ cao trung bình trên 4.500 mét so với mực nước biển, thuộc khu vực thảo nguyên cao nguyên. Địa hình chủ yếu gồm đồng bằng lũng sông, núi cao và sông băng. Đồng bằng lũng sông có độ cao trung bình trên 4.500 mét, mặt đất bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn 10°, và được phân bố đồng đều với ao đầm. Núi cao ở đây có độ cao từ 4.500 đến 5.800 mét và được chia thành các loại như gò đồi cao, núi nhấp nhô nhỏ, núi cao nhấp nhô vừa, và núi cao nhấp nhô lớn. Tổng diện tích sông băng khoảng 60 km², tập trung ở những núi cao nhấp nhô lớn với độ cao trên 5.500 mét.
Tạp Đa - Xương Đô thuộc thượng du sông Lan Thương, có địa hình chuyển tiếp từ núi cao - đồng bằng lũng sông sang núi cao - hẻm núi. Đoạn từ dưới huyện Tạp Đa đến biên giới giữa Thanh Hải và Tây Tạng có núi cao xen kẽ với lũng sông rộng lớn, với chiều cao trung bình của lũng sông từ 00 đến 4.000 mét và núi cao hai bên đạt khoảng 5.000 mét. Từ biên giới Thanh Hải và Tây Tạng đến Xương Đô, núi cao hai bên từ 5.000 đến 5.500 mét, lòng sông từ 3.150 đến 00 mét, hình thành nhiều hẻm núi hình chữ V sâu từ 500 đến 1.000 mét, minh chứng cho địa hình núi cao - hẻm núi.
Từ dưới Xương Đô đến cầu treo Công Quả (sau đổi tên thành cầu Xương Cam) ở Vân Long, Vân Nam là trung du sông Lan Thương với địa hình núi cao - hẻm núi điển hình. Khu vực này có độ nhấp nhô lớn và lưu vực hẹp. Nằm ở tam giác dãy núi Hoành Đoạn, chênh lệch độ cao giữa núi cao và hẻm núi từ 3.000 đến 4.000 mét. Đỉnh núi hai bên lũng sông cao trên 5.500 mét. Hẻm núi lớn Mai Lí dài 150 km với độ cao lớn nhất 4.734 mét, và khoảng cách từ mặt sông đến đỉnh núi là 14 km. Đây là phân đoạn chênh lệch độ cao lớn nhất và chật hẹp nhất toàn lưu vực.
Từ cầu treo Công Quả đến cửa sông Nam A là hạ du sông Lan Thương. Khu vực từ cầu treo Công Quả đến cầu Doãn Cảnh Hồng là vùng núi vừa và thung lũng mở rộng, chuyển tiếp từ cao nguyên Thanh Tạng sang cao nguyên Vân Quý. Địa hình nơi đây bị cắt xẻ mạnh mẽ, với các thung lũng có hình chữ V và chênh lệch độ cao giữa núi và hẻm núi dao động từ 1.000 đến 00 mét. Từ cầu Doãn Cảnh Hồng đến cửa sông Nam A, địa hình chuyển sang núi thấp và thung lũng mở rộng (bồn địa), với độ cao từ 500 đến 1.000 mét. Đáy thung lũng rộng từ 150 đến 300 mét, có thể mở rộng lên đến 800 đến 1.200 mét. Một số bồn địa nhỏ rải rác giữa các núi. Mặc dù sự phát triển của thung lũng và hệ thống sông ngòi bị kiểm soát bởi hình dạng 'chổi' của dãy Hoành Đoạn, nhưng tác động của sự xói mòn và cắt bổ từ nước chảy cũng rất đáng kể.
Sông Mê Kông
Địa hình của sông Mê Kông được chia thành 5 vùng chính: cao nguyên bắc bộ, dãy núi Trường Sơn, cao địa nam bộ, cao nguyên Khorat, và đồng bằng sông Mê Kông. Cao nguyên bắc bộ bao gồm phía bắc Lào, cùng các khu vực núi ở tỉnh Loei và Chiang Rai của Thái Lan, với các đỉnh núi cao từ 1.500 đến 2.800 mét so với mực nước biển, và chỉ có một số ít đồng bằng cao địa. Dãy núi Trường Sơn kéo dài hơn 800 km từ tây bắc đến đông nam, với sườn núi phía bắc và trung dốc đứng, còn phía nam là khu vực gò đồi. Khu vực phía nam bị ảnh hưởng bởi gió mùa Tây Nam với lượng mưa lớn, trong khi thung lũng ở trung tâm khá khô hạn. Cao địa nam bộ bao gồm dãy núi Kravanh ở Campuchia, mặt phía đông là đồi núi dài dằng dặc, còn phía tây là gò đồi. Cao nguyên Khorat ở đông bắc Thái Lan và một phần của Lào là bồn địa hình cánh bướm với chiều dài và rộng khoảng 500 km, nơi sông Mun và sông Chi chảy qua. Đồng bằng sông Mê Kông là vùng đất thấp rộng lớn, bao gồm khu vực tam giác châu.
Sông Lan Thương có hai nhánh chính ở đầu nguồn: sông Trát Khúc (Zha Qu) và sông Ngang Khúc (Ang Qu), đều bắt nguồn từ cao địa có độ cao trên 4.900 mét trong dãy núi Tanggula. Sau khi hợp lưu tại thị trấn Thành Quan, thành phố Xương Đô, Tây Tạng, chúng mới được gọi là sông Lan Thương. Sông Lan Thương chảy dốc về phía nam, xuyên qua cao nguyên Vân Nam với địa hình bị xói mòn thành gò đồi và thung lũng, rồi trở thành biên giới giữa Trung Quốc và Myanmar ở Cảnh Hồng. Nước sông tiếp tục chảy mạnh theo hướng tây nam, và đoạn sông dài hơn 201 km tạo thành biên giới giữa Myanmar và Lào. Lưu vực sông phía dưới Myanmar chia thành 6 khu vực chính: cao địa bắc bộ, cao nguyên Khorat, cao địa đông bộ, đê địa nam bộ, cao địa nam bộ và tam giác châu. Thảm thực vật chủ yếu là cây lá rộng nhiệt đới, nhưng sự khác biệt về vĩ độ và địa hình tạo nên sự đa dạng về cây trồng.
Cao địa bắc bộ có các đỉnh núi cao, khoảng 2.743 mét so với mực nước biển, với nhiều đỉnh núi và sườn núi dốc đứng. Phía nam dòng sông, ở hạ du Viêng Chăn, là cao nguyên Khorat, bao phủ toàn bộ lưu vực sông Mê Kông ở Thái Lan và hạ du của chi lưu sông Mê Kông ở Lào. Đây là vùng gò đồi nhẹ nhàng, đan xen với đồng bằng bồi tích bằng phẳng. Cao địa đông bộ nằm trong dãy núi Trường Sơn, nơi dòng sông từ mặt phía tây đổ vào sông Mê Kông. Đoạn đất giữa Kỳ Sơn, Việt Nam và Kratié, Campuchia, với đường phân thuỷ tạo thành biên giới giữa Việt Nam và Lào-Campuchia.
Khu vực đê địa nam bộ nằm dọc hai bên sông Mê Kông ở hạ lưu Pakxe, Lào. Sông Mê Kông đột ngột chuyển hướng vào Campuchia tại thác Khone. Giữa thác Khone và Kratié, dòng sông chảy qua những ghềnh đá nguy hiểm và nước xiết, cắt xuyên qua đồng bằng bồi tích. Dưới Kampong Cham, lòng sông trở nên thoai thoải và chảy qua vùng bồi tích rộng lớn của đồng bằng ngập lụt. Gần Phnôm Pênh, sông Mê Kông gặp sông Tonlé Sap và kết nối với hồ Tonlé Sap qua sông Tonlé Sap. Dòng chảy của sông Tonlé Sap thay đổi theo mùa; trong mùa lũ, nước sông Mê Kông dâng cao và chảy vào hồ, làm diện tích hồ từ hơn 2.590 kilômét vuông mở rộng lên khoảng 10.360 kilômét vuông. Ngược lại, vào mùa khô, khi nước giảm, sông Tonlé Sap lại chảy vào sông Mê Kông. Hồ Tonlé Sap là một khu vực ngư trường phong phú.
Dãy núi Damrei và dãy núi Kravanh ở phía tây nam Campuchia tạo thành cao nguyên nam bộ. Một số chi lưu của sông Tonlé Sap bắt nguồn từ những vùng cao này. Ở phía hạ lưu Phnôm Pênh, sông Mê Kông phân thành hai nhánh: sông Tiền và sông Hậu. Tam giác châu kéo dài từ đó ra biển, với diện tích khoảng 64.750 kilômét vuông, chia thành ba phần. Bán đảo Cà Mau ở phía nam sông Hậu, mở rộng mỗi năm từ 60 đến 80 mét ra biển do sự lắng đọng bùn cát. Bãi biển phía tây bán đảo tạo thành rừng ngập mặn độc đáo chỉ có ở miền nhiệt đới, cùng với ruộng lúa nước và rừng rậm nhiệt đới. Giữa sông Tiền và sông Hậu là đồng bằng rộng lớn, có hệ thống kênh mương dày đặc. Phía bắc sông Tiền có Đồng Tháp Mười, một vùng ao đầm rộng lớn mùa mưa ngập sâu đến 3 mét và cạn đến đầu gối mùa khô, sản xuất nhiều củ sen và lúa nước nổi; phía đông là đồng bằng Đồng Nai.
Từ biên giới Trung Quốc, Myanmar và Lào đến Viêng Chăn của Lào là thượng lưu sông Mê Kông, dài 1.053 kilômét. Khu vực này chủ yếu nằm ở độ cao từ 200 đến 1.500 mét so với mực nước biển, với địa hình gập ghềnh và nhiều núi chắn đường. Dòng sông trải qua nhiều khúc uốn và bề rộng lũng sông thay đổi liên tục, với độ dốc lòng sông khá nghiêng và nhiều đoạn nước chảy xiết cùng bãi cạn. Từ Viêng Chăn đến Pakxe là trung lưu, dài 724 kilômét, chảy qua các gò đồi của cao nguyên Khorat và chân núi dãy Trường Sơn, khu vực cao 100 đến 200 mét, địa hình không quá gồ ghề. Trong đó, lũng sông ở đoạn đầu rộng lớn và nước yên tĩnh. Từ Kaysone Phomvihane đến Pakxe, lòng sông dốc và nhiều đá ngầm, bãi cạn và nước chảy xiết, với thác Khone, một vùng nước nguy hiểm lớn nhất trên sông. Từ Phnôm Pênh đến cửa sông là đoạn tam giác châu, dài 332 kilômét. Sông Mê Kông chia thành sông Tiền và sông Hậu sau khi tiếp nhận sông Tonlé Sap, chia thành 6 nhánh trước khi đổ vào biển Đông, được gọi là sông Cửu Long. Tam giác châu có chiều cao trung bình dưới 2 mét, diện tích 44.000 kilômét vuông, địa hình thấp, mạng lưới sông ngòi dày đặc và thổ nhưỡng màu mỡ, là khu vực sản xuất gạo quan trọng ở Đông Nam Á.
Khí hậu
Trong lưu vực sông Lan Thương, nhiệt độ trung bình năm ở phía dưới Đức Khâm trên 10℃, với nhiệt độ hàng tháng đều trên 8℃, tháng 6 là tháng nóng nhất và tháng 1 là tháng lạnh nhất. Ở khu vực phía trên Đức Khâm, nhiệt độ trung bình năm dưới 10℃, với tháng lạnh nhất vào tháng 1 dưới 0℃ và tháng nóng nhất vào tháng 7. Tại Tạp Đa, đầu nguồn sông Lan Thương, nhiệt độ trung bình năm chỉ đạt 0,2℃, tháng 1 là -11,3℃ và tháng 7 chỉ 10,69℃, đây là khu vực lạnh nhất toàn lưu vực.
Khu vực hạ lưu sông Mê Kông có nhiệt độ trung bình năm trên 25℃, và nhiệt độ trung bình tháng đều vượt qua 20℃. Tháng 5 là thời điểm nóng nhất trong năm, còn từ tháng 12 đến tháng 1 năm sau là thời gian lạnh nhất. Nhiệt độ tăng dần từ tháng 2 đến tháng 5 và giảm dần từ tháng 6 đến tháng 12. Đặc biệt, khu vực đê địa hạ lưu sông Mê Kông có nhiệt độ trung bình năm khá cao. Khí hậu ở lưu vực thượng du và hạ du sông Mê Kông chịu ảnh hưởng lớn từ gió mùa; vĩ độ, độ cao và địa hình cũng ảnh hưởng không nhỏ, đặc biệt là tác động của địa hình lên lượng mưa.
Lưu vực sông Lan Thương - sông Mê Kông đều bị ảnh hưởng bởi gió mùa. Đầu nguồn ít bị ảnh hưởng nhất, trong khi hạ lưu chịu tác động nhiều nhất. Mùa đông, gió mùa khô lạnh kiểm soát khu vực, trời quang đãng và khô hanh; mùa hè bị gió mùa Tây Nam ấm áp chi phối, trời mưa nhiều. Sự khác biệt giữa mùa đông và mùa hè rõ rệt, và có hai mùa chuyển tiếp là xuân và thu. Thời gian chuyển tiếp ngắn nên năm chia thành hai mùa chính: mùa khô và mùa mưa.
Thời gian và mức độ mùa khô và mùa mưa ở lưu vực thượng du và hạ du khác nhau do ảnh hưởng không đều của gió mùa Tây Nam. Ở hạ lưu sông Mê Kông, mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Lưu vực sông Lan Thương gần giống với hạ lưu sông Mê Kông về mùa mưa và mùa khô. Trung du sông Lan Thương có mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 10, và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau. Thượng du sông Lan Thương là khu vực khô hạn và lạnh, chỉ có ba tháng 6, 7 và 8 có mưa nhiều, các tháng còn lại khô hơn, mùa mưa và mùa khô không rõ ràng. Sự khác biệt về nhiệt độ và lượng mưa từ hạ lưu lên thượng du ngày càng rõ rệt, lượng mưa và nhiệt độ giảm dần. Lượng mưa giảm khi luồng khí ẩm đi lên phía bắc do ảnh hưởng của địa hình. Các khu vực như hồ Tonlé Sap, cao nguyên Khorat và trung du sông Lan Thương đều rõ rệt chịu ảnh hưởng của khu vực bóng mưa.
Hồ Tonlé Sap nằm ở phía đông dãy núi Kravanh và Damrei, trong khi cao nguyên Khorat nằm ở phía đông của dãy núi Phetchabun-Dong Phaya Yen-Sankamphaeng. Lũng sông trung du sông Lan Thương nằm ở phía đông núi Cao Lê Cống và dãy núi Nộ Sơn. Tất cả những khu vực này đều nằm trong khu vực bóng mưa của gió mùa Tây Nam, nơi lượng mưa thấp. Lượng mưa tại lũng sông gần biên giới Vân Nam và Tây Tạng không vượt quá 400 milimét. Các thung lũng giữa các dãy núi cao ở trung du sông Lan Thương không chỉ thiếu mưa mà còn bị ảnh hưởng của hiệu ứng foehn, tạo ra thung lũng khô nóng. Các khu vực mưa nhiều trên sườn đón gió có nhiệt độ thấp hơn rõ rệt so với những khu vực khác cùng vĩ độ, ví dụ như nhiệt độ trung bình ở Paksong và Xiengkhuang thấp hơn so với các khu vực khác. Paksong nổi tiếng là khu nghỉ mát với nhiệt độ năm từ 17 - 22℃. Cao nguyên Khorat có lượng mưa ít và nhiệt độ cao, bị ảnh hưởng rõ rệt bởi khu vực bóng mưa. Phân bố độ ẩm ở lưu vực sông Lan Thương - sông Mê Kông khá đồng đều và tuân theo quy luật biến thiên theo mùa và lượng mưa.
Các vấn đề
Theo tiến sĩ C. Hart Schaaf, cựu thành viên của Ủy ban Mê Kông, '... Đây là một gã khổng lồ đang say ngủ, mang trong mình tiềm năng khổng lồ về thủy điện, thủy lợi và khả năng chống lũ, một nguồn năng lượng bị lãng quên...'.
Hai vấn đề chính gây tranh cãi giữa các bên là việc xây dựng các con đập và phá hủy những khu vực chảy xiết. Một loạt các đập đã được xây dựng trên các nhánh của sông Mê Kông, nổi bật nhất là đập Pak Mun ở Thái Lan. Đập này bị chỉ trích nặng nề vì chi phí cao cũng như tác động tiêu cực đến môi trường và đời sống của các cộng đồng bị ảnh hưởng.
Trung Quốc hiện đang triển khai một chương trình lớn xây dựng đập trên sông, với các đập đã hoàn thành tại Mạn Loan, Đại Triều Sơn và Cảnh Hồng. Họ cũng đang thi công đập Tiểu Loan và nghiên cứu xây dựng thêm hơn mười đập khác. Đến đầu năm 2016, Trung Quốc đã hoàn thành ít nhất 8 đập lớn trên sông Lan Thương (dòng chính ở thượng nguồn sông Mekong) và dự định xây thêm ít nhất 4 đập nữa. Có lo ngại rằng các đập này sẽ cản trở việc di chuyển của trầm tích, gây thiệt hại cho nông nghiệp và nghề cá ở hạ lưu, và giảm thiểu biến động mức nước theo mùa, ảnh hưởng nghiêm trọng đến Biển Hồ (Tonlé Sap).
Các chính phủ Lào và Campuchia cũng dự định xây dựng các đập ngăn nước, mặc dù một số người phản đối. Trung Quốc đang thực hiện việc làm sạch các tảng đá và cồn cát để cải thiện giao thông, điều này cũng khuyến khích Lào thực hiện theo. Các nhà môi trường cảnh báo rằng điều này sẽ tăng cường lưu thông nước, dẫn đến gia tăng xói mòn và tổn hại đến nguồn cá.
Việt Nam thường bày tỏ lo ngại về tác động của việc thay đổi chế độ thủy văn của sông Mekong, vì đồng bằng sông Cửu Long là khu vực bị ảnh hưởng trực tiếp. Đặc biệt, đợt hạn hán ở miền Nam Việt Nam năm 2016 được cho là do lượng nước từ sông Mê Kông giảm mạnh do hệ thống đập thủy điện của nhiều quốc gia trên dòng chính sông. Việt Nam tìm cách phản đối việc xây dựng đập trên dòng chính, nhưng các công ty đầu tư vẫn đang đẩy mạnh xây dựng thủy điện trên các phụ lưu.
Trong khi chưa có quy định ứng xử rõ ràng, tạp chí Mỹ The National Interest mô tả hệ thống hàng chục đập thủy điện của Trung Quốc ở thượng nguồn các sông phía đông nam dãy Himalaya như là một 'vũ khí hủy diệt khủng khiếp'. Những đập này có thể trở thành công cụ để Trung Quốc gia tăng sức ép trong các vấn đề ngoại giao, nhằm thu về lợi thế cho chính mình.
Tuy nhiên, trong các cuộc thảo luận về việc chia sẻ nguồn nước, vấn đề khó giải quyết nhất là quyền hợp pháp của các vùng lãnh thổ trong việc 'giữ lại lượng nước mưa trên đất của mình' và 'ngăn không cho đất bị xói mòn thành phù sa của sông', nhằm nâng cao chất lượng môi trường sống. Vấn đề thương thảo về mức độ chia sẻ của các vùng thượng nguồn thường chứa đựng nhiều yếu tố biến động. Các vùng hạ nguồn cần phải thích ứng với tình hình một cách hợp lý. Liệu các vùng hạ nguồn có nên giữ lại lượng nước mưa đã rơi trên lãnh thổ của mình thay vì để nó trôi ra biển, và trông chờ vào 'tài nguyên' từ các vùng khác để chống hạn và làm màu mỡ đất đai của mình?
Các loài động vật quý hiếm
Theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (World Wide Fund for Nature hay World Wildlife Fund - WWF), các nhà khoa học đang tìm kiếm nhiều loài cá quý hiếm như cá úc, cá trê, cá đuối gai độc khổng lồ, cá nhái răng nhọn, cá chép lớn và cá ăn thịt tại sông Mê Kông. Những loài cá này có thể nặng đến hơn 90 kg và dài hơn 1,80 mét. Ngoài ra, sông Mê Kông còn có các loài cá chiên và cá lăng quý hiếm, cùng với cá hô và cá chép khổng lồ, do đó dịch vụ du lịch câu cá ở đây rất phát triển.

Đặc biệt, khu vực sông Mê Kông ở Campuchia và hồ Tonlé Sap là nơi sinh sống của cá heo sông (Irrawaddy dolphin, Orcaella brevirostris), với số lượng chỉ còn vài chục cá thể. Người dân Campuchia không săn bắt chúng, ngoại trừ thời kỳ chiến tranh khi lính Khmer Đỏ từng tấn công đàn cá heo bằng súng cối; hành động này đã được ghi lại trong một đoạn phim tài liệu, sau đó được National Geographic Channel phát sóng trong loạt phóng sự về cá heo sông Mekong từ năm 2010. Loài cá heo này đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng do môi trường sống và nguồn thức ăn bị phá hủy nghiêm trọng. Vào ngày 24/8/2012, chính phủ Campuchia đã thiết lập một khu bảo tồn cá heo sông Mekong dài 180 km, kéo dài từ tỉnh Kratie ở phía đông đến biên giới với Lào. Dù người dân vẫn được phép câu cá trong khu vực bảo tồn, chính phủ đã cấm sử dụng nhà nổi, lồng cá và lưới quét vì chúng đe dọa sự sống của cá heo sông.
Zed Hogan, phụ trách dự án do WWF và Hội Địa lý Quốc gia tài trợ, cho biết các loài động vật này là 'độc nhất' và 'đang biến mất với tốc độ nhanh chóng'. Hogan giải thích rằng khi nghiên cứu cá úc khổng lồ ở sông Mê Kông, Campuchia, các nhà khoa học theo dõi sự di chuyển của chúng với hy vọng hiểu thêm về hành trình di trú và nguyên nhân gây ra cái chết của chúng. Sự biến mất của các loài cá này là dấu hiệu đầu tiên cảnh báo tình trạng đánh bắt quá mức hoặc các xáo trộn khác tại các sông, hồ nơi chúng sinh sống.
Một số loài động vật nước ngọt khổng lồ đã được ghi vào sách đỏ các loài bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Cá úc khổng lồ ở sông Mê Kông được coi là loài cá nước ngọt lớn nhất cùng họ với cá nhám chó và đã được đưa vào danh sách các loài bị đe dọa từ năm 2003, sau khi nghiên cứu chỉ ra rằng số lượng cá đã giảm ít nhất 80% trong hơn 13 năm qua.
Robin Abell, nhà sinh học của WWF, cho biết: 'Các loài cá khổng lồ là những sinh vật nước ngọt có trọng lượng tương đương với voi và tê giác, và nếu chúng biến mất, thế giới sẽ trở nên bất ổn. Cuối cùng, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về cách quản lý việc đánh bắt và bảo vệ các môi trường sống nhằm cứu vãn các loài trong tương lai'.
Các cây cầu bắc qua sông Mekong
Khu vực hạ lưu Đông Nam Á bao gồm các công trình cầu quan trọng sau:
- Cầu Hữu nghị Lào-Myanmar kết nối Luangnamtha, Lào với Shan, Myanmar (dự án)
- Cầu Hữu nghị Thái-Lào IV, nối tỉnh Chiang Rai, Thái Lan với huyện Huoixai, tỉnh Bokeo, Lào
- Cầu kết nối tỉnh Xayabury với tỉnh Oudomxay, Lào
- Cầu qua sông Mê Kông nối Luang Prabang với Xayaburi, tỉnh Xayabury, Lào (đã hoàn thành)
- Cầu Pak Lay nối tỉnh Xayaburi với tỉnh Vientiane, Lào (đã khởi công)
- Cầu Hữu nghị Thái-Lào VII nối tỉnh Loei, Thái Lan với Viêng Chăn, Lào (dự kiến)
- Cầu Hữu nghị Thái-Lào nối tỉnh Nong Khai và thị xã Nong Khai, Thái Lan với thủ đô Viêng Chăn của Lào
- Cầu nối Nong Khai với Viêng Chăn (dự án)
- Cầu Hữu nghị Thái-Lào V nối tỉnh Bueng Kan, Thái Lan với tỉnh Borikhamxay, Lào (dự án)
- Cầu Hữu nghị Thái-Lào III, nối tỉnh Nakhon Phanom, Thái Lan với thị xã Thakhek, tỉnh Khăm Muộn, Lào
- Cầu Hữu nghị Thái-Lào II nối tỉnh Mukdahan, Thái Lan với tỉnh Savannakhet, Lào
- Cầu Hữu nghị Thái-Lào VI nối huyện Na Tan, tỉnh Ubon Ratchathani với tỉnh Saravane, Lào (dự án)
- Cầu Hữu Nghị Lào-Nhật Bản, Pakxe, tỉnh Champasack, Lào
- Cầu Don Khong, Champasack, Lào (đã hoàn thành)
- Cầu Stung Treng, còn gọi là cầu hữu nghị Campuchia-Trung Quốc, tỉnh Stung Treng, Campuchia
- Cầu Kizuna nối thành phố Kampong Cham với các huyện tỉnh Kampong Cham, Campuchia
- Cầu Prek Ta Meak, tỉnh Kandal, Campuchia
- Cầu Monivong, Phnôm Pênh, Campuchia
- Cầu Ta Khmau, nối Ta Khmau với ngoại ô Phnôm Pênh
- Cầu Neak Leung, nối tỉnh Kandal và tỉnh Prey Veng
- Cầu Koh Thom, huyện Koh Thom, tỉnh Kandal
- Cầu Cao Lãnh, nối thành phố Cao Lãnh với huyện Lấp Vò, Đồng Tháp
- Cầu Mỹ Thuận, Tiền Giang - Vĩnh Long
- Cầu Mỹ Thuận 2, Tiền Giang - Vĩnh Long
- Cầu Rạch Miễu, Tiền Giang - Bến Tre
- Cầu Rạch Miễu 2, Tiền Giang - Bến Tre (đang thi công)
- Cầu Ba Lai, Bến Tre
- Cầu Ba Lai mới, Bến Tre
- Cầu Hàm Luông, nối thành phố Bến Tre với huyện Mỏ Cày Bắc, Bến Tre
- Cầu Đình Khao, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long (dự án)
- Cầu Cổ Chiên, nối huyện Mỏ Cày Nam tỉnh Bến Tre với huyện Càng Long tỉnh Trà Vinh
- Cầu Vĩnh Trường, nối thị trấn An Phú với xã Vĩnh Trường, huyện An Phú, An Giang
- Cầu Châu Đốc, nối thành phố Châu Đốc với thị xã Tân Châu (đang thi công)
- Cầu Lấp Vò (Cầu Bình Thạnh Trung), huyện Lấp Vò, Đồng Tháp
- Cầu Vàm Cống, nối quận Thốt Nốt, Cần Thơ với huyện Lấp Vò, Đồng Tháp
- Cầu Cần Thơ, Cần Thơ - Vĩnh Long
- Cầu Cần Thơ 2, Cần Thơ - Vĩnh Long (dự án)
- Cầu Đại Ngãi, Trà Vinh - Sóc Trăng (đã khởi công)