1. Bài mẫu thứ nhất
2. Bài mẫu thứ hai
3. Bài mẫu thứ ba
4. Bài mẫu thứ tư
5. Bài mẫu thứ năm
Đề bài: Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh
5 ví dụ văn mẫu Phân tích bài Ngắm trăng của Hồ Chí Minh
1. Khởi đầu:
- Giới thiệu Hồ Chí Minh với vai trò là một nhà thơ cách mạng
- Giới thiệu về bài thơ Ngắm trăng
2. Phần chính:
a. Nội dung chính:
- Hoạt động ngắm trăng được coi là một sở thích cao quý của nhiều người, đặc biệt là các nhà thơ.
- Bối cảnh của việc ngắm trăng:
+ Môi trường: trong tù hẹp hòi, tối om và bị ràng buộc, gò bó.
+ Thời điểm: giữa đêm khuya -> thường khiến cho người ta suy tư sâu xa.
+ Tình trạng: “không có rượu cũng không có hoa” -> thiếu thốn.
+ Từ “vô”: nhấn mạnh sự thiếu thốn khi ở trong tù, không có rượu hoa và không tự do.
=> Mặc dù cuộc sống khó khăn, thiếu thốn nhưng Bác vẫn thưởng thức thư giãn ngắm trăng, sáng tác thơ -> Hình ảnh người chiến sĩ cách mạng kiên cường, bất khuất trước khó khăn.
- Tình yêu thiên nhiên của người chiến sĩ cách mạng:
+ Con người và ánh trăng bị cách biệt bởi hàng sắt của nhà tù.
+ Dù bị chia cắt bởi hàng rào, con người vẫn đứng bên cạnh để ngắm nhìn vẻ đẹp của thiên nhiên.
+ Ánh trăng được nhân cách hóa để trở thành bạn tri kỉ của nhà thơ.
=> Nhà tù có thể giam cầm thân xác nhưng không thể kiềm chế tinh thần của nhà thơ, mong muốn tương tác với thiên nhiên.
b. Nghệ thuật:
- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt ngắn gọn, súc tích.
- Nghệ thuật đối được áp dụng tinh tế, thể hiện rõ hoàn cảnh và tâm trạng của người tù.
- Ánh trăng được nhân hóa thành một người bạn tri kỉ của thi nhân.
3. Kết thúc:
- Tổng kết nội dung và nghệ thuật của bài thơ Ngắm trăng
II. Mẫu văn Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Ngắm trăng
1. Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh, mẫu số 1:
Trăng luôn là bạn tri kỉ, là nguồn cảm hứng bất tận của thi sĩ. Trong thơ phương Đông và phương Tây, đã có vô số bài thơ viết về trăng, để lại dấu ấn không phai trong lòng người đọc. Hồ Chí Minh, trong cuộc đời cách mạng và vĩ đại của mình, luôn coi trăng là tri âm, tri kỉ.
Bài thơ Ngắm trăng (Vọng nguyệt) được sáng tác trong tình cảnh đặc biệt, là tù giam tăm tối dưới chế độ Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc, khoảng những năm 1942-1943. Thi sĩ tù nhân bị xích tay, cùm chân, nhưng tâm hồn vẫn tự do, hân hoan, say mê ngắm nhìn vẻ đẹp của trăng sáng:
Trong nhà tù, không có rượu cũng không có hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó lòng quên;
(Tại địa ngục, không có rượu cũng không có hoa,
Đẹp đêm nay, khó lòng phớt lờ;)
Thơ khai tả cảnh tù giam cùng khắc nghiệt: không rượu cũng không hoa. Trong ngục, rượu và hoa làm gì có, chúng chỉ để làm cho tâm hồn thi sĩ say mê. Ngày xưa, uống rượu ngắm trăng, uống rượu thưởng hoa là điều thông thường. Trong những đêm trăng đẹp, thi nhân thường mang rượu ra uống để thưởng trăng, thưởng hoa. Chỉ khi có đủ rượu và hoa, cuộc vui mới thú vị, hạnh phúc. Thường thì, người ta chỉ ngắm trăng khi thảnh thơi, tâm hồn thư thái. Nhưng ở đây, thi sĩ ngắm trăng trong hoàn cảnh đặc biệt của lao tù, khi bản thân phải sống trong cảnh 'khác loài người', không thích hợp để thưởng trăng. Làm sao có rượu và hoa để thưởng trăng? Không có nhà tù nào 'nhân đạo' đến mức mỗi khi trăng sáng lại mang rượu và hoa cho tù nhân ngắm trăng. Ý thơ chỉ có thể hiểu là, trước cảnh đẹp của đêm trăng, thi sĩ bỗng khao khát được thưởng trăng một cách trọn vẹn.
Những bài Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Ngắm trăng hay nhất
Mặc dù ở chốn lao tù, khi không có rượu cũng không có hoa..., thực tế u ám và lạnh lùng phủ lên tất cả, nhưng trong lòng yêu đời của Bác, cảm hứng vẫn tỏa sáng, nồng nàn khiến Người phải nói lên: Cảnh đẹp đêm nay khó lòng phớt lờ. Câu thơ thể hiện sự xao xuyến, bùng cháy của Bác trước đêm trăng tuyệt vời. Vầng trăng tròn đầy, sáng tỏ kia như một lời mời gọi, kêu gọi thi nhân phải ra giữa tự do để chiêm ngưỡng, để kết bạn với trăng. Nhưng vì hoàn cảnh giam cầm trói buộc, việc thưởng trăng của người tù - thi sĩ chỉ diễn ra trong một cách âm thầm, lặng lẽ:
Nhìn về phía trước, minh nguyệt chờ chào,
Trăng hướng về sau, thi gia say mê.
(Người đứng ngoài soi trăng qua cửa sổ,
Trăng nhìn khe cửa, đắm chìm trong nhà thơ.)
Bác đắm chìm trong việc ngắm trăng qua cửa sổ. Bốn bức tường giam giữ không thể kìm nén được cảm xúc mãnh liệt. Bác để hồn mình bay theo ánh trăng và gửi vào đó ước mơ về tự do cháy bỏng. Dường như thi sĩ muốn trao gửi lời thầm tâm sự này đến trăng: Trăng ơi, trăng có hiểu lòng yêu trăng của ta đến đâu không?
Trăng nhìn khe cửa, chăm chú ngắm nhà thơ.
Vầng trăng đã vượt qua hàng rào sắt để ngắm nhà thơ (khán giả thiên nhiên) trong tù. Điều này cho thấy cả người và trăng đều tự nguyện tìm đến nhau. Việc nhân hóa này cho thấy thi sĩ tù nhân và vầng trăng tự do đã trở nên gắn bó thân thiết với nhau từ lâu.
Trái tim người trôi trong biển ý thức, lắng nghe âm thanh của hòn đá rơi vào hồ nước tĩnh lặng. Mỗi tiếng rơi như một giai điệu cuộc sống, gợi nhớ về bí mật của vũ trụ.
Bước chân của người tù thi sĩ là những bước đi của tinh thần vượt lên trên tường giam ngục. Trái tim họ tự do bay lượn trong không gian bao la của trí tuệ và trí tưởng tượng.
Chữ Hán trên giấy xanh như những vệt sáng của trăng trên bầu trời đêm. Sự giao hòa giữa người và trăng không chỉ là sự kết nối về vật lý mà còn là sự hiểu biết sâu xa về tâm hồn.
""""HẾT BÀI 1""""-
Ngoài việc phân tích vẻ đẹp của bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh, để hiểu sâu hơn về môn Ngữ Văn lớp 8, các em cũng nên đọc thêm về hình ảnh của Bác Hồ trong bài thơ Ngắm trăng cũng như soạn văn lớp 8 - Bài Ngắm trăng.
Phân tích chi tiết bài Ngắm trăng của Hồ Chí Minh, mẫu số 2:
Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ cách mạng mà còn là một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm thơ của Người thể hiện tình yêu đời, tình yêu thiên nhiên, và tình yêu quê hương đất nước một cách sâu sắc. Bài thơ 'Ngắm trăng', một trong những tác phẩm nổi bật trong tập thơ 'Nhật kí trong tù', mở ra một thế giới tâm hồn phong phú của Bác trong bức tranh đen trắng của ngục tù.
Vào tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh bị bắt và giam giữ trong nhiều nhà tù khác nhau tại Quảng Tây. Tuy nhiên, qua tập thơ 'Nhật kí trong tù', chúng ta vẫn có thể thấy được bức tranh về tâm hồn của Người - một tinh thần lạc quan, một bản lĩnh phi thường của một người chiến sĩ cộng sản, và một tình yêu thương con người và thiên nhiên đầy nhạy cảm.
Trước hết, hai dòng thơ mở đầu là sự khai mạc về cuộc sống trong nhà tù và những tâm trạng u hoài của người nghệ sĩ:
Trong tù không có rượu, không có hoa
Cảnh đẹp đêm nay không thể phai nhạt
phiên dịch:
Trong tù không có rượu, không có hoa
Cảnh đẹp đêm nay không thể phai nhạt
Phân tích sự huyền diệu của bài thơ Ngắm trăng (Vọng nguyệt) của Hồ Chí Minh
Từ 'vô' (không) được nhấn mạnh hai lần để làm nổi bật những điều không thể thiếu ở thời điểm này: không có rượu, không có hoa. Và trái ngược với sự thiếu sót đó là 'cảnh đẹp đêm nay khó lòng phai nhạt'. Câu hỏi trong câu thơ thứ hai 'nhược hà?' (làm thế nào?) thể hiện sự lo lắng, bối rối của người nghệ sĩ khi đứng trước vẻ đẹp không thể thưởng ngoạn được: không có rượu, cũng không có ánh trăng để tận hưởng đêm đẹp trọn vẹn thì phải làm sao?. Sự tiếc nuối, băn khoăn là biểu hiện của một tâm hồn chân thành, của tình yêu thiên nhiên sâu sắc, khao khát đắm chìm cùng với ánh trăng. Vượt lên trên những khó khăn, xiềng xích của ngục tù, Bác Hồ vẫn mở lòng ra để chứng kiến vẻ đẹp của thiên nhiên, của ánh trăng đêm trong không gian lạnh lẽo của nhà giam. Lời thơ đã thể hiện một tâm hồn cao quý, yêu vẻ đẹp hơn mọi khó khăn của Hồ Chí Minh trong tù.
Khi đối diện với vẻ đẹp mà không biết phải làm thế nào vì sự thiếu thốn, Bác đã tìm cách giải quyết khéo léo, chân thành: sử dụng tấm lòng để đáp lại tấm lòng, sử dụng tình yêu với ánh trăng để đối phó với vầng trăng - người bạn thân thiết của mình. Đó là một cách ứng xử đầy ý nghĩa, lãng mạn và mơ mộng:
Nhìn trăng từ kẽ của cửa tù
Trăng nhìn lại thi sĩ với lòng trân trọng.
Thật là một cuộc gặp gỡ đầy duyên nợ! Bất kể không gian xung quanh có hẹp hòi, cái 'song sắt' vẫn ngăn cản, người và trăng, trăng và người vẫn hướng về nhau bằng tấm lòng tri kỉ. Người hướng ra ngoài qua cánh cửa để ngắm nhìn vẻ đẹp của trăng, trong khi trăng cũng vượt qua cản trở để đến bên người. Một không gian hoàn toàn yên bình trong những phút giây hòa mình nồng nàn giữa người và trăng. Sự nhân hóa trong câu thơ cuối đã làm cho vầng trăng trở nên sống động, có tâm hồn, ánh mắt, hình dáng cụ thể, và cũng biết đồng cảm, chia sẻ để trở thành bạn tri kỉ, bạn bè của người tù. Thật là một khoảnh khắc lãng mạn, đầy thơ mộng, ánh trăng đã làm tan chảy đi cảnh ngục tù u ám, làm cho tâm hồn người trở nên sáng sủa, trong trẻo. Câu thơ vẽ lên một bức tranh đêm với cảnh người tù ngắm trăng thật đẹp, ấm áp, tươi vui, thể hiện sự giao cảm đặc biệt của người với trăng.
'Ngắm trăng' mang đậm màu sắc cổ điển và hiện đại. Màu sắc cổ điển được thể hiện qua chủ đề (Vọng nguyệt), các yếu tố thiên nhiên (rượu, hoa, trăng), thể thơ tứ tuyệt, và cấu trúc đối chiếu (hai câu cuối). Còn vẻ đẹp hiện đại thể hiện qua tâm hồn lạc quan, luôn tràn đầy tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống, và bản lĩnh phi thường luôn hướng về ánh sáng của người chiến sĩ cộng sản...
Bài thơ viết theo thể tứ tuyệt, chỉ có 28 chữ cái rất ngắn gọn, cô đúc nhưng đã thành công trong việc mô tả bức tranh tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản: yêu thiên nhiên với tinh thần lạc quan, mạnh mẽ, vượt lên trên hoàn cảnh tù đầy khắc nghiệt. Đó là chất thép trong bài thơ hay chính là chất thép trong bản lĩnh kiên cường phi thường của người chiến sĩ vĩ đại - Hồ Chí Minh.
3. Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh, mẫu số 3:
Trong suốt cuộc đời, Bác Hồ luôn tập trung chăm sóc cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, Người không có ý định trở thành một nhà thơ, nhưng như đã từng viết:
'Ngâm thơ ta không có ý định
Nhưng ngồi trong ngục, làm thế nào đây?'
Hoàn cảnh 'rỗi rãi' khiến Người tiếp cận với thơ ca như một sự kỳ diệu. Trong những năm tháng giam giữ tại nhà lao Tưởng Giới Thạch, Bác đã sáng tác một bài thơ tuyệt vời có tựa là 'Vọng nguyệt'.
'Trong ngục không có rượu, không có hoa
Nhìn trời, hướng đến trước nhìn nguyệt
Nguyệt lại hướng về, cùng ngắm như nhau
Nguyệt vẫn ngắm, mình vẫn xem.'
Dịch tên bài thơ là 'Ngắm trăng':
'Trong tù không có rượu, không có hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó lòng hững hờ
Người nhìn trăng qua cửa sổ
Trăng nhìn lọt khe cửa, ngắm nhà thơ'
Tài liệu Phân tích bài thơ Ngắm trăng, được chọn lựa
Tựa đề của bài thơ là 'Vọng nguyệt' - 'Ngắm trăng'. Người xưa thường ngắm trăng trên các lầu vọng nguyệt, trong vườn hoa cùng với bạn bè, cùng với bình thơ, ly rượu.. Nhưng bây giờ, Bác ngắm trăng trong hoàn cảnh đặc biệt:
'Trong tù, không có rượu, không có hoa'
Câu thơ mở đầu hé lộ nhiều điều bất ngờ. Người nhìn trăng là một tù nhân không có tự do 'trong tù'. Trong tình huống đó, con người thường chỉ chìm đắm trong nỗi đau đớn và sự khát vọng báo thù. Nhưng Hồ Chí Minh với trái tim yêu thiên nhiên cuồng nhiệt, Người lại hướng về ánh trăng trong trẻo, dịu dàng. Hơn nữa, chốn giam cầm tối tăm ấy 'không có rượu, không có hoa'. Từ 'diệc' trong nguyên tác chữ Hán (có nghĩa là 'cũng') nhấn mạnh sự thiếu thốn, khó khăn trong việc 'ngắm trăng' của Bác.
Không có tự do, không có rượu, không có hoa nhưng 'Đối diện với ánh trăng sáng, ta biết phải làm sao đây?' - Đối mặt với ánh trăng rực sáng, ta sẽ làm thế nào? Nguyên văn chữ Hán là một câu hỏi đầy bối rối, đầy băn khoăn của tâm hồn thi sĩ trước vẻ đẹp tinh khiết, tròn đầy của ánh trăng. Không có điều kiện vật chất tối thiểu, không có cả tự do nhưng ở Hồ Chí Minh đã có một cuộc 'vượt ngục tinh thần' vô cùng độc đáo như Bác đã từng tâm sự:
'Thân thể ở trong nhà tù
Tinh thần tự do bay bổng ngoài kia'
Thân thể bị giam giữ nhưng tâm hồn của Bác vẫn lên nhẹ nhàng bên cạnh thiên nhiên. Điều này được giải thích bởi tình yêu sâu đậm của Bác dành cho thiên nhiên và cũng bởi một tinh thần 'bất diệt' không ngừng chiến đấu với cái xấu, cái ác. Trăng tỏa sáng, lòng người cũng trở nên trong sáng nên giữa trăng và con người đã có sự hòa mình hoàn hảo:
'Nhìn về phía trước, ta thấy trăng sáng rực
Trăng nhìn về phía trước, ta cảm nhận vẻ đẹp đời thường'
Phiên bản dịch thơ:
'Người đứng nhìn trăng chiếu qua cửa sổ
Trăng lại nhìn vào khe cửa, ngắm nhà thơ'
'Trong bản gốc tiếng Hán, tác giả sử dụng phép đối chiếu giữa hai câu thơ 'ngắm' - 'trăng', 'hướng' - 'tòng', 'song tiền' - 'song khích', 'minh nguyệt' - 'thi gia'. Điều đó thể hiện sự cộng hòa, hòa mình giữa người và trăng để trăng và người trở thành cặp đôi tri âm tri kỉ. 'Ngắm' không ngại cảnh lao tù mà 'hướng song tiền khán minh nguyệt'. Trong tiếng Hán, 'khán' có nghĩa là ngắm nhìn, thưởng thức. Đáp lại tấm lòng của người tù - thi nhân, vầng trăng cũng 'tòng song khích khán thi gia'. Trong tiếng Hán, 'tòng' là theo; trăng theo song cửa để ngắm nhà thơ 'khán' thi gia. Đó là một cảm nhận cực kỳ độc đáo. Vầng trăng là biểu tượng của vẻ đẹp vĩnh hằng của vũ trụ, là niềm khao khát vĩnh cửu của thi nhân. Vậy mà giờ đây, trăng lên qua song cửa hẹp, chân vào chốn lao tù âm u để chiêm ngưỡng nhà thơ hay là tâm hồn nhà thơ ấy. Điều đó đã thể hiện vẻ đẹp trong con người Hồ Chí Minh.
'Ngắm trăng' xuất hiện vào những năm 1942 - 1943 khi Bác Hồ bị giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch. Bài thơ thể hiện thái độ thoải mái, coi thường nguy hiểm và gian khổ của Bác. Dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, Người luôn hướng về thiên nhiên để thể hiện tấm lòng nhân ái với thiên nhiên. Điều này là một biểu hiện quan trọng của tinh thần thép của Hồ Chí Minh.
'Ngắm trăng' không chỉ là một bài thơ mô tả cảnh vật đơn giản. Thi phẩm còn là một bức tranh tinh thần tự họa của Hồ Chí Minh. Và vì thế, bài thơ thực sự là một tác phẩm văn chương đáng trân trọng trong kho tàng văn học Việt Nam.
4. Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Ngắm trăng của Hồ Chí Minh, mẫu số 4:
Nguyễn Ái Quốc là một nhà lãnh đạo vĩ đại, một cha già của dân tộc. Người là một nhà cách mạng sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập và tự do cho dân tộc. Trong thời gian bị giam giữ, Người đã viết một Nhật ký trong tù gồm 113 bài, trong đó có bài thơ 'Ngắm Trăng'. Bài thơ này mô tả cảnh ngắm trăng trong tù, thể hiện tình yêu của Người đối với thiên nhiên và mong muốn hòa mình vào cảnh vật thiên nhiên.
Trong câu thơ đầu, tác giả đã nhấn mạnh sự thiếu thốn trong tù:
'Trong tù không rượu cũng không hoa'
Dù trong tù, Hồ Chí Minh vẫn vui vẻ chấp nhận mọi thiếu thốn. Tâm hồn yêu thiên nhiên của Người không bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh khó khăn. Trong tâm trí Người, thiên nhiên luôn hiện diện và Người luôn mong muốn được gắn kết với thiên nhiên. Khác với người khác, Người không cảm thấy cô đơn khi nhìn thấy thiên nhiên.
'Không biết làm thế nào mà chết điều uất thôi Khi con tu hú ngoài trời vẫn đều kêu'
Danh sách các bài Phân tích về vẻ đẹp của bài thơ Ngắm trăng được lựa chọn hàng đầu
Trong nhà tù, Hồ Chí Minh đã quên mình là người tù và tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên, đặc biệt là ánh trăng, với tư cách của một thi nhân và thi gia. Cảm xúc ấy được thể hiện trong câu thơ sau:
'Đối diện với sự khốc liệt của cuộc sống, cảnh đẹp của đêm nay không dễ bỏ qua'
Trong bản dịch, câu thứ hai của bài thơ đã bị chuyển từ dạng câu hỏi sang câu trần thuật, làm mất đi ý tưởng đẹp ban đầu của nó. Sự bối rối và xúc động trong tâm trí nhà thơ đã không còn được tái hiện, thay vào đó là sự phủ định 'khó hững hờ'. Trước vẻ đẹp của ánh trăng, người thi sĩ không biết phản ứng thế nào, khi mà cảnh đẹp ấy vô cùng huyền bí. Nhà thơ không thể cưỡng lại được vẻ đẹp của thiên nhiên. Câu hỏi tự nhiên ấy là một dấu hiệu của sự say mê và khát khao của Bác về vẻ đẹp của thế giới. Đối với người đọc, đó có thể là một câu hỏi băn khoăn, nhưng với Bác, đó lại là một cách để tôn vinh sự thủy chung và quyết tâm của mình. Ánh trăng thanh khiết ấy như một lời mời gọi, thúc đẩy thi nhân ra ngoài, tìm kiếm tự do và sự giao hòa. Dù thiếu thốn vật chất, thiếu thốn 'không rượu cũng không hoa', dù bị giam cầm trong không gian chật hẹp của nhà tù, nhưng hai tâm hồn vẫn hòa mình vào nhau, mang theo khát vọng tự do và sự vượt ngục.
Trong bản dịch,
'Người ngắm trăng soi qua cửa sổ Trăng lại nhìn qua khe cửa ngắm nhà thơ'
"Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ"
Hai câu thơ trong bản dịch cũng không thể hiện đầy đủ sự đối lập như trong bản gốc, đồng thời, từ 'nhòm' và 'nhắm' trong bản dịch là hai từ đồng nghĩa, khiến cho sự chính xác và sắc nét của ý nghĩa thơ không được bảo toàn. Trong hai câu thơ, Bác sử dụng kỹ thuật đối lập tài tình và sử dụng kỹ thuật nhân hóa đúng lúc, khiến cho trăng và con người trở nên gần gũi và thân thiết, như hai tri âm tri kỉ cùng vượt qua song sắt của nhà tù để đến gần nhau. Ở đây, trăng và con người đều là sự hiện thân của Bác, là sự hiện thân của một tâm hồn vừa là nghệ sĩ vừa là chiến sĩ, yêu tự do và chủ động tìm kiếm vẻ đẹp mà không bị bất kỳ nhà tù nào ngăn cản được.
Trong bài thơ này, mối quan hệ giữa con người và trăng được thể hiện là một mối quan hệ gần gũi và bình đẳng. Trăng mang vẻ đẹp của chính nó, còn con người mang vẻ đẹp của tâm hồn. Trăng không chỉ soi sáng qua song sắt của nhà tù để nhìn vào tù nhân, mà còn để ngắm nhìn thi nhân. Đây là khoảnh khắc thăng hoa của Bác, là lúc Bác tự nhận mình là thi nhân. Trong thời điểm này, chỉ khi là thi nhân, Bác mới có thể tương tác thân thiết với ánh trăng kia. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh cửu của vũ trụ, là niềm khát khao muôn đời của các thi nhân. Và giờ đây, vầng trăng lấp lánh qua song sắt chật chội, đặt chân vào nhà tù ẩm ướt, để ngắm nhìn nhà thơ, hay chính là tâm hồn nhà thơ. Điều này làm nổi bật vẻ đẹp trong con người của Hồ Chí Minh.
Tác phẩm này cho thấy rằng, dù trong hoàn cảnh đặc biệt bị giam hãm trong tù, không có rượu, không có hoa, nhưng Bác vẫn không chán nản và tuyệt vọng; ngược lại, Người vẫn giữ được phong thái ung dung tự tại và hòa mình vào thiên nhiên hơn nữa. Người đã hoàn thành một cách ấn tượng cuộc vượt ngục bằng tinh thần, để rồi đắm mình trong không gian rộng lớn, mênh mông và thơ mộng, cùng ánh trăng ngoài song sắt nhà tù.
Nghệ thuật trong bài ngắm trăng của Bác giống như các bài thơ ngắm trăng khác mà Người đã viết khi bị tù đày. Tuy nhiên, mỗi bài thơ lại mang những đặc điểm riêng: trăng đầy sức sống, sự xuân tươi trong Rằm tháng Giêng; trăng mang vẻ đẹp và tri kỷ trong Báo tiệp. Tóm lại, qua tất cả những bài thơ này, Bác đã cho thấy vẻ đẹp của một tâm hồn thi sĩ luôn mở rộng lòng để hòa mình cùng với thiên nhiên.
Trong ánh trăng, tâm hồn Bác lãng mạn hòa mình vào vẻ đẹp tự nhiên, đong đầy tình cảm với môi trường xung quanh. Mỗi ai đắm chìm trong vẻ đẹp của trăng đều làm cho trăng cảm nhận được sự tương tác với vẻ đẹp của con người, tượng trưng cho sức hút lẫn nhau giữa hai thế giới. Điều này không chỉ là sự sáng tạo trong biểu diễn văn học mà còn phản ánh sự nhạy cảm hiện đại khi tiếp cận một chủ đề cổ điển.
Trong việc chiêm ngưỡng vẻ đẹp của trăng, Bác Hồ thể hiện tinh thần yêu đời và mong muốn tự do, tự do cho con người và tự do để tận hưởng vẻ đẹp tự nhiên của đất nước. Dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào, Bác cũng luôn tìm đến sự hòa mình vào tự nhiên.
5. Phân tích bài thơ Ngắm Trăng của Hồ Chí Minh, mẫu số 5:
Tình yêu với trăng và sự kiên cường của người cộng sản đã kích thích tinh thần đấu tranh không ngừng. Sự kết hợp giữa lòng nhân ái và sức mạnh của lý tưởng, cùng với nghệ thuật diễn đạt và nhân văn, đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ này.
Khi nhìn thấy trăng, tâm trạng ban đầu của nhà thơ bị lẫn lộn - tù nhân - thi sĩ trước vẻ đẹp của trăng. Bởi vì đây là một trải nghiệm đặc biệt - nhìn thấy trăng trong tù. Trong tù, không có rượu, không có hoa là điều dễ hiểu, Ông hiểu điều đó nhưng vẫn nhắc lại hai lần với từ 'không' như một cách xin lỗi trước trăng - người bạn tri âm, tri kỉ. Đó là sự lẫn lộn của một nghệ sĩ chân chính. Chỉ có những nghệ sĩ thực thụ mới hiểu và cảm nhận sâu sắc tình yêu và cảm xúc tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
Với bài thơ này, ngoài việc phản ánh thực tế lạnh nhạt của nhà tù, nỗi lo âu của nhà thơ càng thể hiện sự kiên nhẫn mạnh mẽ của người tù, vượt qua và vượt lên hoàn cảnh hiện tại để giữ vững tinh thần nhạy cảm, luôn biết trân trọng, xúc động trước vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống.
Bài Phân tích vẻ đẹp của bài thơ Ngắm trăng một cách súc tích
Sau khoảnh khắc của sự lẫn lộn, bối rối là khoảnh khắc của sự đồng cảm tuyệt vời giữa con người và trăng, thi sĩ và người bạn tâm tình.
Trăng treo cao, lòng người sáng bừng, giao hòa thiết tha.
Như chúng ta, trăng và lòng người, đều vượt lên trên bất kỳ rào cản nào.
Ngày dài chờ đợi, hy vọng tự do không ngừng.
Sự kết hợp giữa tù đày và trái tim tự do tạo nên hòa bình thâm trầm.
Sau khi học xong bài Ngắm trăng, hãy sẵn sàng bước vào thế giới của Đi đường (Tẩu lộ).