Viện Nghiên cứu Căng thẳng tại Hoa Kỳ khẳng định những người có điểm trên 300 trên thang đo Holmes và Rahe sẽ có 80% nguy cơ bị giảm sức khỏe trong vòng 2 năm tiếp theo.
Năm 1926, Hans Selye, một bác sĩ người Hungary, đã quan sát thấy rằng tất cả các bệnh nhân đến thăm phòng khám của ông đều có một số triệu chứng chung như: mệt mỏi, mất cảm giác đói, giảm cân, thích nằm một chỗ cả ngày và không muốn làm bất cứ việc gì…
Sau hơn 10 năm nghiên cứu trạng thái này, Selye nhận ra rằng mọi áp lực về mặt thể chất hoặc tâm lý đều gây ra một loạt các triệu chứng tương tự. Selye sử dụng khái niệm 'stress' từ ngôn ngữ của các nhà vật lý và đặt tên nó là 'căng thẳng'.
Có câu nói đùa rằng, trước khi Isaac Newton phát minh ra lực hấp dẫn, những quả táo không rơi xuống đất và con người có thể bay. Điều này thật ngớ ngẩn! Tuy nhiên, có một điều chắc chắn: Trước khi khái niệm 'căng thẳng' được định nghĩa bởi Hans Selye vào năm 1936, 'stress' chỉ là một khái niệm mà các nhà vật lý sử dụng, nói về các sợi dây, lò xo và thanh ray kim loại của họ.
Đã hơn 9 thập kỷ trôi qua kể từ khi căng thẳng được nghiên cứu một cách chuyên sâu. Ngày càng nhiều nhà khoa học nhận ra rằng cảm giác căng thẳng đáng sợ hơn so với suy nghĩ ban đầu.
Bắt đầu từ những biểu hiện như mệt mỏi, uể oải, và chán ăn, rất ít người hiểu rằng căng thẳng góp phần vào 80% các loại bệnh trên thế giới, bao gồm cả bệnh tim mạch, tiểu đường, và ung thư.
Thường thì căng thẳng gây ra bệnh thông qua việc kích thích hành vi không lành mạnh như hút thuốc, uống rượu, và tiêu thụ đồ ngọt quá mức. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới đây chỉ ra rằng căng thẳng có thể trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình mắc bệnh, đặc biệt là ung thư.
Tình hình này đáng lo ngại, khi cuộc sống ngày nay đặt ra nhiều áp lực từ mọi phương diện như tài chính, công việc, gia đình và xã hội. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng ô nhiễm không khí, tiếng ồn và các tác động của đô thị hóa, công nghiệp hóa đều làm tăng căng thẳng cho con người.
Theo Viện Nghiên cứu Căng thẳng Hoa Kỳ, mỗi 3 người trên thế giới có 1 người phải đối mặt với căng thẳng quá mức. Họ cảnh báo rằng những người này có 80% nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến stress, gây suy sụp sức khỏe trong 2 năm tới.
Làm thế nào để biết bạn đang ở trong nhóm nguy hiểm và giảm căng thẳng trước khi bệnh tật xảy ra? Câu trả lời có trong bài viết này.
Khảo sát trong bài viết sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về vấn đề này. Hãy xem cách chúng tôi tiếp cận vấn đề và làm sáng tỏ một hoài nghi mà nhiều người vẫn còn chưa giải đáp.
Câu hỏi này liên quan đến những nghiên cứu của Hans Selye vào thập kỷ 1930 về tác động tiêu cực của căng thẳng lên cơ thể. Ông đã cố gắng thuyết phục cộng đồng y tế quan tâm đến vấn đề này.
Tuy nhiên, Selye không thực sự thành công trong nỗ lực này. Khái niệm 'căng thẳng' mà ông đề xuất bị các nhà khoa học cho rằng quá mơ hồ, trong khi các bác sĩ phủ nhận rằng áp lực tâm lý có thể gây ra bệnh.
Vào năm 1958, Selye bị liên kết với một 'vụ bê bối' liên quan đến ngành công nghiệp thuốc lá. Nhiều người nghi ngờ rằng ông đã nhận tiền (tương đương khoảng 2,1 triệu USD ngày nay) để giúp quảng cáo căng thẳng như là một nguyên nhân của bệnh trong việc 'phát minh' ra các điếu thuốc.
Vào cuối thập kỷ 1950, thuốc lá được phát hiện là nguyên nhân của nhiều bệnh từ tim mạch đến ung thư.
Ngành công nghiệp thuốc lá nhận ra rằng, nếu họ có thể đổ lỗi cho căng thẳng về nguyên nhân gây ra bệnh, thì họ có thể giảm tội lỗi hoặc tránh trách nhiệm, dựa trên việc rằng người ta thường hút thuốc khi căng thẳng.
Do đó, họ bí mật chi tiền để Selye nghiên cứu, với hy vọng có thể sử dụng phát biểu của ông để quảng cáo sản phẩm của mình.
Mối quan hệ giữa Selye và ngành công nghiệp thuốc lá đã khiến nhiều người tự hỏi: Liệu căng thẳng có thực sự tồn tại, hay chỉ là một phần của chiến lược tiếp thị của ngành công nghiệp?
Selye đã nỗ lực nhưng không thành công trong việc thuyết phục mọi người về khái niệm 'căng thẳng', khiến nhiều nhà khoa học cho rằng ông quá mơ hồ và các bác sĩ phủ nhận tâm lý có thể gây ra bệnh.
Với một nhà khoa học như Selye, điều này là một điểm tồi tệ trong sự nghiệp. Ông đã được đề cử tới 17 lần cho giải Nobel Y học, nhưng không một lần nào ông đoạt được.
Về phần Selye, ông có thể đã hình dung được việc thuyết phục các đồng nghiệp khó đến mức nào, do đó, ông đã chuyển hướng sang một đối tượng mới: công chúng.
Selye nhận thấy rằng khi ông viết báo để giới thiệu khái niệm 'căng thẳng' cho độc giả phổ thông, các tầng lớp lao động bình dân đã đón nhận nó hơn là những nhà khoa học tự nhốt bình bên trong tháp ngà của họ.
Chẳng hạn như khi Selye mô tả những triệu chứng thường gặp của căng thẳng, bao gồm nhịp tim tăng cao, cảm thấy khó ngủ, gặp vấn đề dạ dày, tiêu hóa… Sau đó, ông hỏi mọi người có gặp căng thẳng khi trải qua những tình huống như mất việc, li dị, chuyển nơi ở mới… hay không?
Câu trả lời của nhiều người là: Có. Điều này đủ để họ tin vào việc mình đang bị căng thẳng. Các khái niệm và ý tưởng về căng thẳng mà Selye đưa ra, bây giờ không cần đến khoa học thực nghiệm để kiểm chứng. Chính công chúng, những người đọc sách, đã trở thành đối tượng kiểm chứng cho căng thẳng.
Sau đó, Selye đã tự mình làm việc từ 19-20 tiếng mỗi ngày, ông điên cuồng viết báo và sách. Hơn 1.500 bài báo và 40 cuốn sách về căng thẳng đã được Selye viết ra để truyền bá khái niệm mới của mình. Một trong số đó là cuốn 'Căng thẳng và cuộc sống' đã trở thành cuốn sách bán chạy trên phạm vi toàn cầu.
Khi đọc giả phổ thông của Selye dễ dàng thừa nhận khái niệm căng thẳng, và họ nói về nó ở mọi nơi: 'Tôi bị căng thẳng ở nơi làm việc', 'Tôi căng thẳng khi ở nhà', 'Cuộc sống dạo này khiến tôi thấy căng thẳng'...
Điều này đặt áp lực lớn trở lại cho cộng đồng khoa học, họ phải kiểm chứng khái niệm này một cách nghiêm túc hơn bằng cách:
Như trọng lực không phải là phát minh của riêng Isaac Newton, lực điện từ không phải là do Michael Faraday tạo ra, và căng thẳng đã luôn tồn tại trong vật lý cơ học cổ điển, các nhà tâm lý học nói rằng nếu căng thẳng tâm lý của Hans Selye thực sự tồn tại, họ phải tìm cách đo được nó.
Công việc này được thực hiện lần đầu tiên bởi Thomas Holmes và Richard Rahe, hai nhà tâm lý học người Mỹ vào năm 1967.
Để đo được mức độ căng thẳng của một người, Holmes và Rahe đã nghiên cứu hồ sơ y tế của hơn 5.000 bệnh nhân, liệt kê các sự kiện có ảnh hưởng trong đời mà họ từng phải đối mặt trước khi mắc bệnh.
Các sự kiện này được Holmes và Rahe chấm điểm dựa trên căn bệnh mà người đó mắc phải, với điểm số cao hơn cho những sự kiện gây căng thẳng lớn hơn và có khả năng gây ra bệnh tật.
Kết quả là, Holmes và Rahe đã thiết lập được một thang đo căng thẳng đầu tiên bao gồm 43 sự kiện có ảnh hưởng lớn trong cuộc đời.
Holmes và Rahe nhận thấy rằng trong vòng một năm kể từ khi thực hiện khảo sát, những người trải qua các sự kiện có tổng điểm cao hơn 300 là những người có mức căng thẳng cao và có nguy cơ cao mắc một loại bệnh tật nào đó.
Những người có điểm từ 150-299 có mức độ căng thẳng vừa phải và nguy cơ mắc bệnh của họ ở mức trung bình (giảm 30% nguy cơ so với nhóm trên). Những người có tổng điểm nhỏ hơn 150 được Holmes và Rahe đánh giá là có nguy cơ mắc bệnh thấp với mức độ căng thẳng thấp.
Ví dụ, một người đàn ông có vợ mới sinh con. Vì vợ sinh con nên sức khỏe của cô ấy được xem là biến động lớn (44 điểm), vợ anh cũng không thể làm việc (26 điểm), không đáp ứng nhu cầu tình dục (39 điểm).
Anh ấy cũng có thêm đứa con (39 điểm) và thường phải thay đổi thói quen ngủ (16 điểm), thói quen ăn uống (15 điểm), thói quen giải trí (19 điểm), thói quen cá nhân (24 điểm) để chăm sóc vợ con.
Những yếu tố này khiến người đàn ông này rơi vào nhóm có nguy cơ mắc bệnh trung bình với 222 điểm.
Nếu anh ấy tiếp tục gặp căng thẳng trong công việc như cãi nhau với đồng nghiệp (35 điểm), gặp rắc rối với sếp (23 điểm), bị điều chuyển sang bộ phận khác (29 điểm), thì anh ấy có nguy cơ mắc bệnh cao hơn 300 điểm trên thang đo của Holmes và Rahe.
Bạn cũng có thể sử dụng thang đo của Holmes và Rahe để tính điểm căng thẳng cho chính mình. Nhớ rằng, có một số sự kiện quan trọng trong cuộc đời được xem là 'hạnh phúc' nhưng cũng có thể gây căng thẳng, và bạn cần phải tính đến chúng.
Thang đo căng thẳng của Holmes và Rahe đã được sử dụng liên tục từ năm 1967 để đánh giá mức độ căng thẳng và nguy cơ mắc bệnh của một người.
Một số nghiên cứu tiếp tục chỉ ra rằng nguy cơ mắc bệnh cao trong nhóm dân số có điểm trên 300. Đến 49% những người thuộc nhóm này cuối cùng sẽ mắc bệnh, trong khi con số chỉ là 25% ở nhóm 200-299 điểm và 9% trong nhóm có điểm dưới 150.
Những người thuộc nhóm trên 300 điểm có nguy cơ mắc bệnh nhiều hơn 90% so với nhóm dưới 150 điểm.
Nếu kéo dài thời gian đánh giá, Viện Căng thẳng Hoa Kỳ cho biết người nào có trên 300 điểm trong thang đo Holmes và Rahe sẽ có 80% nguy cơ mắc một căn bệnh khiến sức khỏe của họ suy sụp trong vòng 2 năm tiếp theo của cuộc đời.
Những con số này bây giờ đã được hỗ trợ bởi hàng trăm nghiên cứu bệnh lý học về căng thẳng, những gì tình trạng này có thể gây ra với hệ thống nội tiết của cơ thể, qua đó, ảnh hưởng tới quá trình sinh bệnh và tiến triển của bệnh tật.
Vì vậy, thật khó để phủ nhận sự tồn tại của căng thẳng, cho dù, những người tích cực quảng bá khái niệm này nhất lại là ngành công nghiệp thuốc lá. Và Hans Selye, dù có nhận tiền tài trợ từ những công ty sản xuất thuốc lá, ông ấy không tự mình phát minh ra căng thẳng.
Selye đã phát hiện nó giống như Isaac Newton phát hiện ra lực hấp dẫn, Michael Faraday phát hiện ra lực điện từ và Albert Einstein phát hiện ra hiệu ứng quang điện.
Trở lại với bài kiểm tra căng thẳng của Holmes và Rahe, tin xấu là nếu điểm căng thẳng của bạn trên 150, nó sẽ đưa bạn vào nhóm những người có nguy cơ mắc bệnh. Đặc biệt, điểm căng thẳng trên 300 sẽ khiến bạn có nguy cơ mắc bệnh rất cao.
Các loại bệnh đã được chứng minh có mối liên hệ với căng thẳng bao gồm: bệnh tim mạch, cao huyết áp, viêm loét dạ dày, tá tràng, hen suyễn, hội chứng đau (ví dụ như đau nửa đầu, đau đầu, đau lưng), một số bệnh ngoại da, rối loạn tâm lý như trầm cảm, rối loạn lo âu, hội chứng ruột kích thích…
Bằng chứng khoa học tiếp tục khẳng định căng thẳng góp phần vào nhiều căn bệnh nguy hiểm khác, từ bệnh ngoại da, các hội chứng tuyến giáp cho đến tiểu đường type 2 và ung thư.
Nhưng cũng có tin vui.
Các nhà khoa học cho biết bạn có thể vượt qua Thang đo căng thẳng của Holmes và Rahe, dựa trên một sự thật, thang đo này chưa xét đến cách mỗi người chúng ta xử lý căng thẳng.
Nếu bạn có chiến lược đối phó với mỗi tình huống căng thẳng trong thang đo của Holmes và Rahe, điểm căng thẳng của bạn sẽ được giảm, và bạn cũng giảm nguy cơ mắc bệnh của mình.
Ví dụ, việc đi dạo thường xuyên đã được chứng minh làm giảm căng thẳng ở nơi làm việc. Một cái ôm từ người thân có thể giúp giảm căng thẳng từ những mâu thuẫn trong hôn nhân.
Các bệnh nhân tim mạch có thể thực hành thiền định, yoga hoặc tập hít thở sâu để giảm huyết áp. Chiến lược tương tự cũng có thể giúp ích với bệnh nhân ung thư, những người tham gia các buổi trị liệu tâm lý để giải tỏa căng thẳng và giảm nguy cơ ung thư tái phát và di căn.
Nếu bạn cảm thấy căng thẳng quá mức, hãy tìm đến sự trợ giúp của bác sĩ hoặc chuyên gia trị liệu để kiểm tra và giúp bạn giải quyết căng thẳng bằng cách sử dụng thuốc hoặc liệu pháp tâm lý.
Nếu bạn chỉ cảm thấy một chút căng thẳng và cần giải tỏa ngay lập tức, hãy dừng lại và thử một phương pháp đơn giản được khuyến cáo bởi Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ.
Các phương pháp này, mặc dù được khuyến khích cho bệnh nhân ung thư, cũng có thể giúp giảm căng thẳng và đau đớn cả về thể xác và tinh thần.
Nếu những phương pháp này có thể giúp giảm căng thẳng cho bệnh nhân ung thư, chúng cũng có thể hữu ích với nhiều người khác.
- Hãy thử một trong 3 bài tập dưới đây được gợi ý bởi Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ: (1) Thư giãn cơ thể và tâm trí, (2) Hít thở sâu và chậm, (3) Hít thở và thư giãn cơ bắp từng nhóm.
- Hoặc bạn có thể thử bài tập thư giãn khác như tập trung vào một vật hoặc nhắm mắt lại và tưởng tượng về một khung cảnh yên bình, kết hợp với hít thở sâu và chậm.
Khi kết thúc buổi tập, hãy tự nhủ rằng bạn đã cảm thấy thư thái và tỉnh thức trước khi tiếp tục hoạt động tiếp theo.
Lưu ý: Bạn có thể thu âm phần này để sử dụng khi thực hành hoặc nhờ người khác thu âm nếu không muốn nghe giọng của mình.
Quán tưởng hiệu quả nhất khi bạn nhắm mắt. Hãy tạo hình ảnh trong tâm trí và tập trung vào cảm giác của mình.
Nếu đau đớn, hãy tưởng tượng mình khỏe mạnh và cắt dây tín hiệu đau. Hoặc tưởng tượng quả cầu năng lượng chữa lành:
- Thở chậm và tập trung, nói thầm: 'Hít vào, một, hai, ba...' và 'Thở ra, một, hai, ba...'. Hãy tưởng tượng quả cầu chữa lành trong phổi hoặc ngực.
- Hít vào, hơi thở đẩy quả cầu đến vùng đau. Quả cầu chữa lành và giúp bạn thư giãn.
- Khi thở ra, hãy tưởng tượng quả cầu trôi ra khỏi cơ thể, mang theo nỗi đau.
- Lặp lại hai bước cuối mỗi khi hít vào và thở ra.
Kết thúc bằng cách đếm chậm đến ba, hít sâu, mở mắt và thầm nói: 'Tôi đã tỉnh thức và thư thái'.
Còn nhiều phương pháp giảm căng thẳng khác bạn có thể thử. Nhưng điều quan trọng nhất là:
Căng thẳng là cơ chế tự nhiên của cơ thể. Nhưng nếu mắc phải quá nhiều căng thẳng, nó có thể gây ra bệnh tật.
Căng thẳng không chỉ là nguyên nhân của nó mà còn là hậu quả của nó. Nó có thể gây ra bệnh tật và cũng là kết quả của bệnh tật. Khi cảm thấy căng thẳng vì bệnh tật, bệnh tình có thể trở nên nghiêm trọng hơn. Điều này không chỉ liên quan đến ngành công nghiệp thuốc lá.
Thực tế là, đã có những cơ chế sinh học cho thấy căng thẳng có thể góp phần vào việc phát triển ung thư và cũng làm cho tình trạng di căn của ung thư trở nên nhanh chóng hơn. Việc kiểm soát căng thẳng là một phần quan trọng trong quá trình điều trị các bệnh, kể cả ung thư và các bệnh mạn tính khác.
Đối với những người khỏe mạnh, việc phòng tránh căng thẳng nên được xem xét là một phần của lối sống lành mạnh, kết hợp với chế độ dinh dưỡng, giấc ngủ và hoạt động thể chất. Điều này cũng giống như bạn đang thực hiện một chiến lược phòng tránh bệnh một cách khoa học và hiệu quả.
Tổng kết