Bài thơ Tương Tư là một điển hình cho nét thơ giản dị của Nguyễn Bính. Đây là sự xúc động, nhớ nhung chân thành của chàng trai miền quê với sự đa dạng, đẹp và sâu sắc, sắc nét của văn hóa dân gian, hình ảnh quê hương ấm áp. Dưới đây, Mytour xin giới thiệu mẫu bài văn Cảm Nhận Vẻ Đẹp Dân Gian Trong Bài Thơ Tương Tư Của Nguyễn Bính mà chúng tôi đã đăng tải trong bài viết này. Mời các bạn học sinh lớp 11, lớp 12 cùng theo dõi bài viết này.
Vẻ Đẹp Dân Gian Trong Bài Thơ Tương Tư - Mẫu 1
Trong khi hầu hết các nhà thơ trẻ - theo nhận xét của Hoài Thanh 'đều mặc cảm nhận của mình với bảy nhà thơ Pháp' thì Nguyễn Bính đã đi theo một con đường riêng, trở về với văn hóa dân gian, với những bài ca về làng quê, rặng mồng tơi, bến đò, cây đa, bến nước.
Nguyễn Bính đã trở thành một trong những nhân vật nổi bật của trường phái thơ mới dân gian, bên cạnh Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, và Bàng Bá Lân. Thơ của Nguyễn Bính không có sự mãnh liệt, dữ dội như thơ tình Xuân Diệu, cũng không có nỗi đau thương như thơ tình Hàn Mặc Tử. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính chân thật và mộc mạc như tình yêu của người dân gian trong ca dao. Bài thơ 'Tương tư' là minh chứng điển hình cho giọng thơ của Nguyễn Bính trong lĩnh vực thơ tình, kết hợp hoàn hảo giữa yếu tố truyền thống và hiện đại, mang đậm nét dân gian mộc mạc và tinh tế.
Trong dòng thơ mới 1930-1945, 'Tương tư' của Nguyễn Bính mang phong cách cổ điển và dân dã ở cả hình thức, đề tài. Trái với thơ mới của Xuân Diệu mang màu sắc phương Tây, hay thơ của Hàn Mặc Tử mang tính siêu thực, thơ của Nguyễn Bính lại gắn bó với bản sắc ca dao. Yếu tố truyền thống chủ yếu thể hiện qua hình thức lục bát, một thể loại thơ truyền thống của người Việt Nam. Nguyễn Bính sử dụng cách viết nhịp đều đặn, hài hòa như trong ca dao truyền thống, như nhịp chẵn 2/2/2; 2/4 (câu lục) và 2/2/2/2; 4/4 (câu bát), đây là nhịp ca dao quen thuộc:
'Thôn Đoài / ngồi nhớ / thôn Đông
Một người / chín nhớ / mười mong / một người'
Bài thơ 'Tương tư' xoay quanh nỗi nhớ, tương tư của chàng trai đối với người con gái, là đề tài phổ biến trong ca dao.
'Nhớ ai khổ sở thế này
Nhớ ai, ai nhớ, đêm ngày nhớ ai
Nhớ ai, ai có nhớ ai
Nhớ sao da diết, biết có ai nhớ mình'
(Ca dao)
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
(Ca dao)
Thơ lục bát của Nguyễn Bính tự nhiên và mượt mà, không gò ép nhưng cũng không lệch pha hay trơn tru. Thể thơ lục bát dường như đã thấm vào tâm hồn của Nguyễn Bính. Theo thi sĩ Mộng Tuyết, Nguyễn Bính viết thơ lục bát rất tự nhiên: 'Bính viết lục bát nhanh như văn xuôi'. Đọc thơ Nguyễn Bính, ta như được lắng nghe những khúc nhạc êm dịu của ca dao:
Gió mưa là bệnh của trời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Hai thôn chung một làng,
Lại sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng.
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành;
Nhưng đây cách một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi.
Tận dụng điệu thơ trầm buồn, êm ái, mượt mà của thể lục bát, Nguyễn Bính đã sáng tạo ra những câu thơ lục bát tuyệt vời, mang đậm phong cách thơ 'chân quê':
Về ngôn ngữ, tương tự như ngôn ngữ của thơ ca dân gian, ngôn ngữ trong thơ Nguyễn Bính không phức tạp mà thân thiện, chân thành. Nghe như tiếng trách móc nhẹ nhàng đáng yêu của một chàng trai với người yêu:
Hai thôn cùng là một làng,
Sao bên ấy không sang bên này?
Hoặc những câu chuyện chân thực:
Nhà em có giàn đa,
Nhà anh có hàng cây liên phòng.
Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Bính gần gũi với ngôn ngữ của thơ ca dân gian bởi nó phong phú về hình ảnh, màu sắc, âm điệu. Nhà thơ đã chọn cách thể hiện tình cảm trừu tượng thông qua những sự vật cụ thể xung quanh, những cảnh quan bình dị trong làng quê Việt Nam thân quen, gần gũi.
Điều đáng chú ý là những từ có tính vùng mờ nghĩa đặc sắc của thơ ca dân gian đã hài hòa vào bài thơ 'Tương tư' của Nguyễn Bính một cách tự nhiên. Những cụm từ như tôi - nàng, Thôn Đoài – thông Đông, bên ấy – bên này, bến – đò, hoa – bướm cùng với đại từ 'ai' rất mơ hồ, khó xác định đối tượng nhưng dễ dàng áp dụng vào bất kỳ ai, tạo nên sự đồng cảm giữa nhiều người. Nguyễn Bính đã khiến người đọc phải suy ngẫm về những câu có nghĩa mở rộng:
'Tương tư đã thức mấy đêm rồi
Biết cho ai biết, ai người biết cho
Hai thôn chung lại thành một làng
Cớ sao bên ấy không sang bên này'
Nguyễn Bính còn làm phong phú biểu hiện ngôn ngữ thơ bằng cách sử dụng thành thạo các biện pháp tu từ mà ca dao thường dùng. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh xuất hiện thường xuyên trong thơ của Nguyễn Bính. Ví dụ khi nói về tình yêu đôi lứa, tác giả sử dụng hình ảnh 'hoa - bướm' (hoa khuê các, bướm giang hồ), 'trầu - cau' (giàn đa giàu, hàng cây liên phòng), 'bến - đò' (Khi nào bến mới gặp đò).
Nguyễn Bính ứng dụng thành thạo lối đan chữ thường thấy trong thơ ca dân gian, 'chín nhớ mười mong' được lấy từ thành ngữ 'chín nhớ mười thương', một cách sáng tạo để chàng trai thể hiện nỗi niềm riêng tư của mình, miêu tả sự xa cách trong tình yêu, yêu người mà không được gặp người, tình yêu không được đền đáp, thậm chí người ta còn chưa biết nỗi tương tư đến đâu. Do đó, từ ngữ không chỉ đơn thuần mang ý nghĩa thông thường mà khi kết hợp theo kiểu đan chữ, ý nghĩa của từ được nhân lên gấp nhiều lần:
'Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người'
Lối đan chữ 'chín nhớ mười mong' đã nâng cao nỗi nhớ mong thầm thì của chàng trai đang tương tư. Trong bài thơ, tuy có sắc thái dân gian nhưng không che phủ được những tình cảm lãng mạn, đặc trưng của thời kỳ Thơ mới. Nét hiện đại rõ ràng hơn qua cách thể hiện nhịp điệu, hình ảnh và đặc biệt là cảm xúc – tình cảm cá nhân được thể hiện trực tiếp.
Trước tiên về nhịp điệu: Bởi mang hơi thở của thơ ca Tân Thơ, lục bát của Nguyễn Bính thường phá vỡ tính cân bằng và hài hòa của lục bát cổ, đặc biệt là về nhịp điệu. Lục bát trong thơ tình của Nguyễn Bính không chỉ ngắt nhịp theo kiểu truyền thống mà còn có những ngắt nhịp phá cách linh hoạt để diễn đạt tâm hồn của nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình. Tác giả sử dụng kiểu ngắt nhịp 3/3/2 trong câu bát làm cho lời thơ trở nên sống động hơn. Nhịp thơ bất ngờ tạo ra sự xuất hiện đột ngột của tình huống:
Khi nào bến mới gặp được đò,
Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau.
Hoặc sự ngắt nhịp 3/3 trong câu lục biểu thị nỗi chờ đợi mòn mỏi của chàng trai:
Ngày qua ngày, lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đỏ thành cây lá vàng.
Với cách ngắt nhịp linh hoạt và phá cách không theo những quy tắc truyền thống mà dựa trên tần số dao động của cảm xúc, Nguyễn Bính đã tạo cho thơ lục bát của mình những đặc trưng riêng biệt so với ca dao, mang đến những cảm xúc mới mẻ cho người đọc.
Về việc sử dụng hình ảnh, Nguyễn Bính không phải là nhà thơ nổi tiếng với những hình ảnh mới lạ như các nhà Thơ Mới khác như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Thơ ông là sự trở về với những hình ảnh gần gũi quen thuộc trong ca dao với những giàn giầu, hàng cây cau, làng xóm nhưng điều đáng chú ý là Nguyễn Bính sử dụng hình ảnh chất liệu dân dã của ca dao nhưng ông đã thổi vào đó hơi thở của Thơ Mới. Trong ca dao hay thơ trung đại, các tác giả thường lấy thiên nhiên làm lý do, ẩn chứa trong đó cảm xúc, gửi gắm nỗi niềm, ẩn dụ cho chàng trai – cô gái
'Bóng trăng anh tưởng là bóng đèn
Bóng cây anh ngỡ là bóng thuyền em sang'
'Huệ nhớ thương Lan, héo vàng xác Huệ
Anh yêu nàng nhiều lắm, không quan tâm đến sự phiền phức'
Còn trong thơ Nguyễn Bính, tác giả thể hiện trực tiếp tình cảm của mình và thiên nhiên, các hình ảnh thơ để tạo không gian sống cho nhân vật, không gian quen thuộc nuôi dưỡng tình cảm của nhân vật trữ tình:
'Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng'
Câu thơ hiển thị sự chân thực đã lồng vào một giọng điệu đậm chất thành thị của con người thời đại công nghiệp với đặc điểm dám nói rõ tên sự vật, hiện tượng, dám trình bày bản thân một cách thẳng thắn, táo bạo và mãnh liệt. Ngay từ tên của bài thơ 'Tương tư' cũng thể hiện rõ ràng: đó như là một việc phô bày, khoe trước mọi người rằng tôi đang yêu, tôi đang nhớ. Điều này là điều hiếm thấy trong ca dao.
'Tương tư' của Nguyễn Bính vẫn tuân theo hình thức truyền thống của dân tộc nhưng điểm mới nhất nằm ở nội dung. Nguyễn Bính đã làm mới thể thơ lục bát bằng cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, nhịp điệu mới mẻ, linh hoạt, thấm đẫm tình cảm Thơ Mới. Ngoài ra, ông cũng đã thêm 'hồn quê' vào bài thơ. Điều này đã làm cho tác phẩm có diện mạo riêng biệt so với ca dao và các tác phẩm khác trong phong trào Thơ Mới. Nét nổi bật của hồn quê trong lục bát Nguyễn Bính là sự hồn quê mang đậm màu sắc cá nhân. Lục bát ca dao thường mang tính chung chung trong khi thơ lục bát của Nguyễn Bính lại phản ánh tâm tư cá nhân. Bài thơ vừa thừa hưởng, vừa kế thừa những yếu tố truyền thống và đồng thời có những nét mới, đây là điển hình cho phong cách thơ Nguyễn Bính.
Vẻ đẹp dân gian trong bài thơ 'Tương tư - Mẫu 2'
Nguyễn Bính là một trong số các nhà Thơ Mới. Tuy nhiên, nếu phần lớn các nhà thơ cùng thời bị ảnh hưởng bởi thơ phương Tây, thì Nguyễn Bính lại quay về với dân ca, với điệu thơ dân tộc.
“Lỡ bước sang ngang” là một tác phẩm được chú ý nhất trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Bính trước cách mạng. Bằng lối ví von mộc mạc duyên dáng, mang phong vị của ca dao: tác phẩm này đã mang đến cho người đọc những hình ảnh thân quen của quê hương và một tình cảm đậm đà, chân thành. Bài thơ “Tương tư” được xuất hiện lần đầu trong tập thơ “Lỡ bước sang ngang”. Đây là một bài thơ đặc trưng cho phong cách thơ của Nguyễn Bính nói chung và của tập thơ “Lỡ bước sang ngang” nói riêng.
Tương tư là khi nam nữ nhớ nhau. Đây là nỗi lòng u uất của những người yêu nhau mà lại phải chia xa nhau. 'Tương tư' là một đề tài quen thuộc trong văn học dân gian và văn học chuyên sâu. Trước đó, có các nhà thơ lừng danh như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ đã viết về chủ đề này. Trong làng 'Thơ mới', bài 'Tương tư chiều' của Xuân Diệu cũng rất nổi tiếng. Tất cả những điều đó đều là thử thách lớn đối với các nhà văn sau này. Nguyễn Bính đã vượt qua được thử thách đó, mang đến cho đề tài này phần nội dung mới và cách diễn đạt mới.
Nỗi lòng 'Tương tư' của Nguyễn Bính được thể hiện qua các cảm xúc đa dạng của đôi nam nữ yêu nhau mà phải xa cách. Có nhớ mong, có trách móc, có giận dỗi, và tất nhiên là cả sự chờ đợi khắc khoải. Nỗi lòng tương tư ở đây chưa đến mức mãnh liệt như trong thơ Xuân Diệu ('Bữa ni lạnh, mặt trời đi ngủ - Anh nhớ em, em hỡi anh nhớ em!'), nhưng cũng rất chân thành, tha thiết:
'Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông Một người chín nhớ mười mong một người Gió mưa là bệnh của trời Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng'.
Vậy là, nếu gió mưa là 'bệnh', là hiện tượng thường xuyên của thiên nhiên thì nhớ mong lại là 'bệnh' cố hữu diễn ra như một quy luật tất yếu của những người đa tình, đa cảm, dường như đã hiện diện trên đời chỉ để âm thầm yêu thương. Giữa chàng trai và cô gái - những nhân vật trữ tình - có vẻ không có gì là không thể về không gian lẫn thời gian? Họ sống chung một làng, chỉ cách nhau có 'một đầu đình'. Cô gái có thể làm được mọi điều dễ dàng nhưng lại khiến nhân vật trữ tình càng thêm băn khoăn và hờn dỗi. Nhưng không ai chờ đợi mãi được. Như một số bài thơ khác của Nguyễn Bính thường nói về tình yêu đơn phương (như trong bài 'Hoa và rượu'), những lời trách móc, hờn giận đó rõ ràng chỉ là cách thể hiện tâm hồn nhạy cảm, khát khao yêu thương của chính nhà thơ. Khi cuộc sống còn những tình cảm đơn phương, khi còn những trái tim ít tuân theo những quy tắc ràng buộc; thì người đọc cũng không ai nỡ trách Nguyễn Bính đã 'tương tư' một cách âm thầm.
Đặc biệt, sự chờ đợi quý giá ấy được nhà thơ thể hiện một cách mới lạ. Đầu tiên là hình ảnh cái 'tôi' có nhu cầu bày tỏ, phơi bày đã được Nguyễn Bính diễn đạt một cách trực tiếp không vòng vo.
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng'.
Ngoài ra cần đề cập đến việc tác giả đã thành công khi mang vào lời ăn tiếng nói của người dân quê trong cuộc sống hàng ngày. Những lời nói đó xuất hiện tự nhiên, mộc mạc, tạo nên không khí dân dã, thân quen cho cả bài thơ:
'Hai thôn chung lại thành một làng,
Cớ sao bên ấy không sang bên này?
Nhưng đây chỉ cách một đầu đình,
Có xa xôi thế nào mà tình xa xôi?'
Bằng cách sử dụng lời ăn tiếng nói của cuộc sống thường ngày trong thơ, Nguyễn Bính và các nhà Thơ mới đã thu hoạch được nhiều thành công. Thơ của họ trở nên gần gũi hơn với độc giả và góp phần khám phá những điều mới mẻ về con người và đời sống, điều mà trước đó thi ca chính thống chưa thể làm được.
Do đó, nội dung của 'Tương tư', với tính chất vĩnh cửu, đã được Nguyễn Bính thể hiện bằng một cách diễn đạt hiện đại, phản ánh tâm hồn của thanh niên tiểu tư sản những năm 30 của thế kỷ này.
Nhưng giá trị cốt lõi của bài thơ không chỉ nằm ở việc tác giả miêu tả một cách mới mẻ cái 'tôi' chân thành, khát khao yêu thương; mà chủ yếu là việc gợi lên được 'hồn xưa đất nước', như Hoài Thanh đã nói. 'Hồn xưa đất nước' không chỉ hiện lên qua từng chi tiết, từng câu thơ mà thấm qua toàn bộ bài thơ thông qua hình ảnh, lời ví von và giọng điệu chung.
Chúng ta sinh ra trong một đất nước nông nghiệp, dù đã từng 'sát cánh với thành phố' theo Nguyễn Bính, bao nhiêu người trong chúng ta không mang trong mình những ký ức về một làng quê Việt Nam truyền thống? 'Tương tư' có khả năng đánh thức trong lòng độc giả những ký ức sâu thẳm. Trong khi các nhà thơ đương thời như Xuân Diệu hay Lưu Trọng Lư bị ảnh hưởng sâu sắc bởi thơ phương Tây và điều đó mang lại cho phong trào Thơ Mới những nét đặc sắc, thì Nguyễn Bính lại thành công khi quay trở lại với điệu thơ dân tộc, với làng quê Việt Nam thân quen, với những hình ảnh gần gũi từ ngàn xưa: những con bướm trắng, bướm vàng bay trên vườn hoa cải vàng, những vườn cam, vườn bưởi thơm phức, ven đê là ruộng dâu, đồng lúa bát ngát, cạnh giếng là những cô gái thôn quê điệu đà, dệt lụa, đi trình diễn chèo, với trang phục truyền thống: áo dài, quần áo trắng, yếm lụa.
Ở đây có thôn Đoài, thôn Đông, có con đò, bến nước, hàng cau, giàn trầu. Ở đây còn là nơi sinh sống và nuôi dưỡng lối thơ lục bát và Nguyễn Bính đã khéo léo sử dụng lối thơ này, bằng cách ví von đơn giản, thực chất là những ẩn dụ: bến – đò, hoa - bướm, trầu – cau, thôn Đông – thôn Đoài. Hệ thống hình ảnh và lối thơ truyền thống đã đánh thức những cảm xúc sâu thẳm của con người trong làng quê, khiến cho họ nhớ về một Việt Nam quê hương gần gũi và thiêng liêng.
Hơn nữa, 'Hồn xưa đất nước' còn được thể hiện ngay trong cách suy nghĩ kết nối với trời đất, cỏ cây quê hương. Những năm tháng xưa kia đã được tổ tiên miêu tả qua sự biến đổi của lá cây:
'Nửa năm thì tiếng vừa quen
Sân ngô đã chen lá vàng'.
(“Truyện Kiều” - Nguyễn Du)
Nhân vật trữ tình trong bài thơ này cũng đếm thời gian theo sự thay đổi của cảnh sắc thiên nhiên, được thể hiện bằng những câu thơ đơn giản, mộc mạc:
“Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh biến thành lá vàng”.
Thiên nhiên cũng là đề tài để nhân vật trữ tình nhớ nhung, suy ngẫm: “Gió mưa là việc của trời – Tương tư là căn bệnh của tôi yêu nàng”.
Bởi sống hòa hợp với cảnh thiên nhiên, trong ca dao - dân ca, trai gái quê ta không chỉ dùng Thuyền và Bến, Sen - Hồ, Mận – Đào để diễn tả tình yêu một cách tinh tế mà Nguyễn Bính đã khéo léo áp dụng những cách diễn đạt đó để tạo nên tác phẩm nghệ thuật đầy hiệu quả. Nếu ở khổ thứ hai có phần hơi lạc hậu, thiếu sự chính xác (“Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau”), thì khổ thơ cuối cùng chính là tinh hoa nghệ thuật của toàn bài. Ở đó, 'hồn xưa đất nước' hiện lên qua hình ảnh và cách biểu lộ tình cảm tự nhiên, mộc mạc của tác giả. Thay vì diễn đạt trực tiếp ở đầu bài đến cuối bài, Nguyễn Bính sử dụng cách diễn đạt gián tiếp rất tinh tế, mang mùi hương đồng cỏ trong ca dao thuần khiết:
Nhà của tôi có một chồng giàu
Nhà em có một dãy cây cau gắn liền với nhau
Nhớ thôn Đông ở thôn Đoài
Cây cau ở thôn Đoài có nhớ chồng giàu ở đâu không?
Trong phong trào Thơ mới, nhiều nhà thơ như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân đã mô tả thành công vẻ đẹp nông thôn. Tuy nhiên, chỉ có Nguyễn Bính là tạo nên hồn quê Việt Nam. Ngày nay, ở nông thôn Việt Nam, cảnh sắc và tinh thần con người đã có nhiều thay đổi. Thanh niên nam nữ thường thích thể hiện hơn là giữ gìn truyền thống, đeo khăn quàng, chạy xe Cub đã thay thế ngựa và võng điều.
Mặc dù vậy, bài thơ 'Tương tư' của Nguyễn Bính vẫn giữ lại nét tinh hoa của tâm hồn dân tộc, giúp làm phong phú hơn tâm hồn của người đọc. Đó là đóng góp đặc biệt của nhà thơ trong bài thơ này và nhiều bài thơ khác của ông trước Cách mạng, điều này cũng là lý do khiến nhiều người yêu thích thơ của ông.
Vẻ đẹp dân gian trong bài thơ 'Tương tư' - mẫu 3
Thơ của Nguyễn Bính lấy cảm hứng từ nét dân gian, đem đến cho độc giả cái nhìn sâu sắc về tâm hồn xưa cũ của đất nước, thể hiện qua những câu thơ giản dị, mộc mạc nhưng đậm chất nghĩa tình.
Tương tư là một bài thơ đặc trưng cho tâm hồn giản dị của Nguyễn Bính. Bài thơ thể hiện tình cảm lưu luyến, sâu sắc của chàng trai quê mùa với nhiều màu sắc đẹp, tươi sáng, rực rỡ của dân gian, hồn quê ấm áp. Màu sắc dân gian đã tạo nên bầu không khí của làng quê cho bài thơ, đồng thời là đặc điểm của phong cách thơ của Nguyễn Bính.
Một tác phẩm rất dân gian là một tác phẩm đậm chất truyền thống cũng như phong cách biểu hiện thường thấy trong ca dao, dân ca. Ca dao dân ca là những câu chuyện tinh tú và sâu sắc của người lao động bình dân. Nó mang đầy cảm xúc, tri thức của người dân lao động.
Bài thơ Tương tư đầu tiên là một sản phẩm của phong trào Thơ mới. Khi khai sáng bức màn ước mơ để tìm kiếm bản thân, Thơ mới trở nên chan chứa, phong phú và tràn đầy sức sống. Nhiều nhà thơ viết về tình yêu như Nguyễn Bính luôn nhấn mạnh vào sâu sắc, bí ẩn của thế giới thơ này.
Tuy nhiên, Nguyễn Bính đã theo một hướng đi khác. Nói rằng ông đã theo một hướng đi khác thật không phải vì ông chưa từng rời khỏi. Nói rằng ông đã đạt được những thành tựu đáng kể cũng không phải vì ông chưa từng phá vỡ thể loại ca dao truyền thống. Thơ của ông không phải là tình thoáng qua, cũng không phải là tình thiên thu. Tình yêu trong thơ Nguyễn Bính nằm ngay trong cuộc sống của dân tộc, được thể hiện sâu sắc qua ca dao hàng ngàn năm.
Bắt đầu bài thơ là lời tâm sự của một chàng trai:
“Thôn Đoài nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.
Cảm xúc nhung nhớ, tương tư ấy đẹp đẽ nhưng đa dạng. Câu chuyện tôi yêu nàng diễn ra tự nhiên nhưng lại rất kín đáo. Đây là tình cảm trong sáng, thánh thiện thường thấy trong ca dao dân ca:
“Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành sen
Em nhận thì cho anh xin”.
(Ca dao)
Không phải quên chiếc áo là lý do để gặp gỡ, trò chuyện, hay thổ lộ tâm tình. Mà đó chính là cách tinh tế, đẹp đẽ hơn để tỏ tình:
“Hỡi cô tát nước bên đường
Sao cô múc ánh trăng vàng trút xuống?”
(Ca dao)
Hình ảnh chàng trai ẩn mình trong biểu tượng “thôn Đoài”. Tình cảm được che giấu một cách tế nhị: “ngồi nhớ”, không vội vàng hay lòe loẹt. Con người xưa dịu dàng, kín đáo mà đắm đuối, nồng nhiệt: “chín nhớ mười mong”. Tiếp theo, chàng trai tiện lời tỏ bày sau khi viện cái cớ:
“Hai làng gần nhau mà sao lại chia cắt?
Lý do gì khiến bên ấy không sang bên này?”
Lời thơ mang vẻ trách móc nhưng thực ra là mời gọi, khơi gợi bước chân của cô gái thôn nữ sang chơi. Đây cũng là dịp để trò chuyện, đưa lời, hỏi đáp. Chắc chắn rằng, cô gái ấy đã hiểu tâm tình của chàng trai. Chàng đã sẵn sàng tìm cách gặp gỡ nhưng vẫn còn nhiều lo ngại, chưa thể tỏ lộ hết cảm xúc, đành kín đáo gửi lời như gió và trăng:
“Ngày qua ngày lại trôi qua ngày,
Lá xanh đã đổi thành lá vàng.
Giống như việc cách đò đi chỗ nào,
Không sang bên kia thì không có đường đi đã định sẵn.
Nhưng ở đây, cách một bên nhà đình,
Có xa cách bao nhiêu cho tình cảm…
Tương tư đã thức bao đêm rồi,
Biết nói với ai, hỏi ai người biết cách!”
Dường như chàng trai đang nói với cô gái nhưng thực ra đây là một đoạn nội tâm tự hỏi. Nỗi niềm trong lòng không thể nói ra, muốn tìm lời giải đáp để giải thoát u uất. Thời gian trôi qua càng làm cho tình yêu trong lòng cuồn cuộn, thúc đẩy không ngừng mà lòng xa còn mơ hồ. Có chút oán trách nhưng không biết lỗi ai. Chàng trai không dám thẳng thắn nói ra như vậy là thô lỗ. Càng kín đáo, lòng càng đau đớn dữ dội. Ban đầu, cảm giác thúc đẩy sẽ là sức mạnh giúp chàng trai bước sang thôn Đông. Nhưng không, chàng quyết định im lặng và chỉ mong gặp nhau trong mộng tưởng:
“Bao giờ mới gặp được đò?
Hoa vàng bướm giang hồ gặp nhau?
Mãi mãi, tình yêu thầm kín được chôn sâu trong lòng. Tình yêu biến thành khát vọng đẹp đẽ, suốt cuộc đời chỉ là niềm mong ước xa vời mà thôi:
“Nhà của em có một giàn cau giàu
Nhà của anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài nhớ thôn Đông
Cây cau thôn Đoài có nhớ giàu không thôn nào?”
Đọc thơ của Nguyễn Bính, ta cảm nhận được sự nhẹ nhàng và sự trong sáng của tâm hồn. Mỗi câu thơ đưa ta trở về với tinh thần của ngày xưa của đất nước. Dù là viết về tình yêu đôi lứa trong hoàn cảnh khó khăn hay thuận buồm xuôi gió, tất cả đều được đặt trong không gian xanh tươi của làng quê, tràn đầy sức sống. Màu sắc dân gian trong bài thơ Tương Tư phát ra từ khung cảnh bình dị, yên bình và gần gũi. Đó là bối cảnh cho tình yêu nảy nở của đôi trẻ. Thơ của Nguyễn Bính sử dụng linh hoạt ngôn ngữ dân gian. Ngôn từ thơ phong phú, truyền tải cảm giác như đã từng nghe thấy trong ca dao.
Vẻ đẹp dân gian trong bài thơ Tương Tư - Mẫu 4
Khác với những nhà thơ mới khác, Nguyễn Bính không bị ảnh hưởng bởi phương Tây mà luôn mang trong mình một nỗi hoài cổ. Nếu như Xuân Diệu hấp thu những tinh hoa của văn học phương Tây hiện đại, thì Nguyễn Bính lại quay về với hơi thở của ca dao, của những gì gọi là truyền thống. 'Tôi' của Nguyễn Bính luôn là tâm hồn bất an, một tâm hồn tha thiết với những giá trị cổ truyền của dân tộc đang dần mai một trước sự âu hóa của đô thị. Đặc biệt, ông đã mang nét truyền thống ấy vào sáng tác của mình. Tương Tư là một trong những tác phẩm đậm chất dân tộc Việt Nam.
Bài thơ này nói về nỗi lòng mong nhớ chân thành của một chàng trai thôn quê đối với người yêu xa. Tương Tư là câu chuyện của những người yêu nhau nhưng phải chịu cách xa, khiến nỗi nhớ ngày càng trở nên mãnh liệt. Tâm trạng tương tư cũng rất đậm màu sắc dân tộc.
Màu sắc dân tộc thể hiện rõ trong bối cảnh và khung cảnh của bài thơ Tương Tư. Thậm chí cái tương tư đó cũng mang màu sắc dân tộc sâu sắc:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Màu sắc dân tộc được thể hiện qua hình ảnh của Thôn Đoài và Thôn Đông, biểu tượng của những làng quê giản dị và mộc mạc. Tình yêu của đôi trẻ không diễn ra trong cảnh vật hoành tráng của thành phố, mà lại nằm trong sự bình yên của làng quê.
Thơ của Nguyễn Bính mang hồn của cảnh vật làng quê và những nét đặc trưng dân dã nhất. Tình yêu và nỗi nhớ được miêu tả trong thơ của Nguyễn Bính khác với cách Xuân Diệu diễn đạt. Nguyễn Bính sử dụng các từ ngữ ca dao như “tôi” và “nàng”, thể hiện cảm xúc một cách tế nhị và ẩn ý. Câu thơ “một người chín nhớ mười mong một người” gợi nhớ đến câu ca dao “chín nhớ mười thương”. Tác giả khéo léo sử dụng những ví dụ tự nhiên để diễn tả tình yêu, ví như “nắng mưa là bệnh của trời, tương tư là bệnh của tôi yêu nàng” để thể hiện tình yêu tự nhiên và tất yếu như quy luật của thiên nhiên.
Nguyễn Bính không chỉ miêu tả tâm trạng của mình mà còn thể hiện màu sắc dân tộc một cách rõ ràng trong những câu thơ tiếp theo.
“Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng
Bảo rằng cách trở đò giang
Không sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình
Có xa xôi mấy cho tình xa xôi?
Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Bao giờ bến mới gặp đò
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?”
Hình ảnh của những xóm làng cổ xưa hiện ra trước mắt, lồng ghép với những màu sắc dân tộc sâu sắc. Hai thôn nhưng lại nằm trong cùng một làng. Tác giả truyền đạt nỗi niềm trách móc người mà anh ấy yêu thương. Cảm giác này mang hương vị của ca dao, khi tình yêu bị cách trở nhưng không thể được thực hiện công khai. Câu “qua ngày” càng khiến nỗi nhớ của chàng trai tăng lên. Khoảng cách khiến thời gian trôi đi như ba thu, như chiếc lá xanh dần chuyển sang màu vàng, giống như trái tim người nhớ thương đang héo úa vì nhớ nhung.
Hình ảnh của làng quê được đẩy mạnh. Đó là hình ảnh của mái đình, của những chuyến đò qua sông. Bến đò không chỉ là biểu tượng của dân tộc mà còn là biểu tượng của tình yêu, không chỉ trong thơ Nguyễn Bính mà đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm thơ khác. Tuy nhiên, ở đây, hình ảnh này không chỉ là sự chờ đợi mà còn là sự cách trở trong tình yêu. Trong tác phẩm, sự cách trở đó trở thành lý do để chàng trai trách móc người con gái vì sao không đến bên anh khi không có sự chia cắt vật lý như sông và thuyền.
Khoảng cách đó chỉ là cái đầu đình nhưng tình yêu lại cảm thấy xa xôi đến thế. Hình ảnh cái đình đó mang lại vẻ đẹp của những cảnh làng quê Việt Nam, nơi mà không chỉ là nơi sinh hoạt mà còn là nơi lứa đôi hẹn hò. Chàng trai có vẻ muốn trách móc sự lãnh đạm của người con gái. Tuy nhiên, liệu người con gái có lạnh lùng thực sự hay là do tình yêu khiến chàng trai nghĩ rằng cô ta lãnh đạm với anh. Nỗi nhớ khiến chàng trai thức suốt đêm không ngủ được, câu hỏi được nêu lên để trách móc nhưng cũng là biểu hiện của tình cảm nhớ nhung. “Hỏi ai, người biết cho”. Từ nỗi nhớ ấy, chàng trai khát khao được gặp người yêu. Tác giả sử dụng cách diễn đạt ẩn dụ và ước lệ của ca dao (bến - đò, hoa khuê các - bướm giang hồ) để truyền tải tình yêu và nhớ nhung.
Cuối cùng, chàng trai tiếp tục thể hiện tâm trạng và mong ước của mình, từ đó hiện lên những hình ảnh dân tộc sâu sắc.
“Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
Anh và em vẫn cách xa nhau quá nhiều, hình ảnh trầu cau hiện ra một mình để thể hiện sự cô đơn của cả hai. Đồng thời, nó cũng là biểu hiện ước nguyện của chàng trai được duyên với hình ảnh đám cưới làng quê đơn giản và ngọt ngào.
Không chỉ trong nội dung thơ mà ngay cả trong nghệ thuật thơ của Nguyễn Bính cũng mang đậm màu sắc dân tộc. Ngoài những câu ca dao trên, ta cũng thấy màu sắc dân tộc hiện diện trong thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc. Điều này góp phần tạo nên phong cách nghệ thuật và tinh thần của thơ Nguyễn Bính.
Ở đây, ta trải nghiệm được cảm xúc của những người yêu nhau. Đó là sự nhớ thương, đôi khi dẫn đến sự trách móc vô tội vạ. Tình yêu khiến ta cảm thấy buồn bã và có lý do cho cảm xúc ấy. Đồng thời, chúng ta cũng thấy rõ những nét đẹp dân tộc tươi sáng trong thơ Nguyễn Bính.