Su-30MKK/MK2 | |
---|---|
Kiểu | Máy bay tiêm kích đa năng |
Hãng sản xuất | KnAAPO |
Được giới thiệu | Tháng 12 năm 2000 |
Tình trạng | Đang phục vụ |
Khách hàng chính | Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc Không quân Venezuela Không quân Indonesia Không quân Nhân dân Việt Nam |
Số lượng sản xuất | 162 (tính đến đầu năm 2016) |
Chi phí máy bay | 37,5 triệu USD (Su-30MK2 năm 2012) |
Được phát triển từ | Sukhoi Su-27 |
Sukhoi Su-30MKK (tiếng Nga: Mnogofunktzionniy Kommercheskiy Kitayski, nguyên văn 'phiên bản thương mại hiện đại hóa - Trung Quốc' , tên ký hiệu của NATO: Flanker-G) là một mẫu máy bay được sửa đổi từ loại Su-27 vào năm 1999 bởi KnAAPO, JSC. Nó được coi là một phiên bản nâng cấp của Sukhoi Su-30. Đây là một mẫu máy bay tiêm kích tấn công, chiếm ưu thế trên không, đa năng, tầm bắn xa và hạng nặng. MKK hiện đang hoạt động trong không quân một số nước như Trung Quốc, Indonesia, Venezuela và Việt Nam
Lịch sử
Trung Quốc và Nga bắt đầu thương lượng về việc Trung Quốc mua máy bay tiêm kích đa năng Su-30MK vào năm 1996 trong khi Su-30MK vẫn đang trong quá trình phát triển hoàn thiện cuối cùng. Thỏa thuận ban đầu cho 38 máy bay có trị giá khoảng 2 tỉ USD đã được chấp nhận vào tháng 8-1999. Vào ngày 9 tháng 3-1999, nguyên mẫu đầu tiên có tên gọi là 'Blue 501' đã thực hiện chuyến bay đầu tiên. Ngày 19 tháng 6-1999, nguyên mẫu thứ hai có tên gọi 'Blue 502' đã thực hiện chuyến bay đầu tiên của mình, và giống như nguyên mẫu đầu tiên, nó cũng được sử dụng chính để thử nghiệm hiệu suất khí động lực. Nguyên mẫu thứ 3 và 4 có tên gọi lần lượt là 'Blue 503' và 'Blue 504' được chế tạo vào năm sau và dùng để thử nghiệm vũ khí. Mọi chuyến bay thử nghiệm đều diễn ra ở Komsomolsk-on-Amur, lúc này Nga dùng chữ 'K' thứ hai của Su-30MKK để chỉ Komsomolsk-on-Amur, thay cho 'Kitayski' nghĩa là Trung Quốc. Người ta đồn rằng các biện pháp an ninh như vậy được thực hiện dưới yêu cầu của Trung Quốc, và các biện pháp này kéo dài cho đến ngày 15 tháng 8-1999, sau khi tư lệnh không quân Nga đã công khai thừa nhận với phóng viên phương Tây về việc Trung Quốc đặt mua Su-30MKK, sau đó người Nga đã thay đổi các tài liệu của mình với chữ 'K' thứ hai dùng để chỉ 'Kitayski' nghĩa là Trung Quốc. Phương án đặc biệt được định hình theo những yêu cầu của Không quân Quân giải phóng Nhân dân, và nó có tên gọi là Su-30MKK. Những yêu cầu của Trung Quốc đã chỉ ra những nâng cấp quan trọng cho phiên bản Su-30MK gốc, và Phòng thiết kế Sukhoi dùng nhiều kỹ thuật mới như CAD / CAE (kỹ thuật trợ giúp nhờ máy tính) / CAM (Chế tạo có hỗ trợ bằng máy tính) để tăng tốc độ quá trình thiết kế chế tạo. Theo phòng thiết kế Sukhoi, họ chỉ cần 9 tháng từ khi bắt đầu thiết kế đến khi hoàn thành nguyên mẫu đầu tiên 'Blue 501'. Vào tháng 1-2003, Không quân Quân giải phóng Nhân dân (PLAAF) đã đặt mua 24 chiếc Su-30MKK2 đã được cải tiến từ nguyên mẫu MKK ban đầu.
Chuyển giao
- Su-30 MKK
- Đơn vị Không quân số 3 của PLAAF đặt tại Căn cứ không quân Vu Hồ, tỉnh An Huy, đã nhận được lô máy bay đầu tiên gồm 10 chiếc từ KNAAPO vào tháng 12 năm 2000; 38 chiếc còn lại được giao vào cuối năm 2001. Lô thứ hai gồm 38 chiếc được đặt mua vào tháng 7 năm 2001 và được giao vào năm 2003. Những chiếc máy bay này được biên chế tại Đơn vị Không quân số 18 của PLAAF tại Căn cứ không quân Trường Sa, tỉnh Hồ Nam.
- Su-30 MK2
- Vào tháng 1 năm 2002, Không quân Hải quân Quân giải phóng Nhân dân đã đặt mua 24 chiếc Su-30MK2. Tất cả đã được báo cáo chuyển giao vào tháng 8 năm 2004.
- Vào tháng 9 năm 2004, Không quân Venezuela đã đặt mua 24 chiếc Su-30MK2. 4 chiếc đã được chuyển giao vào tháng 12 năm 2005 và các chiếc còn lại được giao vào năm 2007.
- Indonesia đã mua 5 chiếc Su-30MK2 trong 2 giai đoạn khác nhau, một số chiếc vào năm 2003 và các chiếc còn lại vào năm 2006.
Cấu trúc
Tương tự như phiên bản Su-30MKI (Flanker-H) của Ấn Độ, Su-30MKK cũng có 85% điểm chung với Su-35 trong các thiết bị phần cứng, tuy nhiên, khác biệt về phần mềm là rất lớn so với Su-35 (Flanker-E) do những yêu cầu nhiệm vụ khác nhau của Trung Quốc. Phiên bản cũ của dòng máy bay Flanker đã có vấn đề về giảm lực G tối đa từ 7g xuống 9g ở vận tốc từ 0,7 Mach đến 0,9 Mach, và những vấn đề này đã được giải quyết hoàn toàn trên Su-30MKK nhờ vào việc áp dụng các công nghệ mới. Theo phòng thiết kế của Sukhoi, Su-30MKK là dòng máy bay đầu tiên trong dòng Flanker có thể làm được như vậy sau khi Su-35 / 37 (Flanker-E/F) đã ra đời. Tỷ lệ sử dụng vật liệu composite trong việc chế tạo Su-30MKK lớn hơn so với Su-30MK ban đầu. Ngoài ra, hợp kim nhôm mới cũng đã được thay thế cho loại hợp kim cũ được sử dụng trên Su-30MK để giảm trọng lượng. Đối với 2 đuôi lái chính, đã được làm bằng nhiều vật liệu composite sợi carbon hơn so với Su-30MK. Tuy nhiên, phản bác một số tuyên bố sai lầm của phương Tây, phòng thiết kế của Sukhoi đã tiết lộ rằng khoảng không chính giữa hai đuôi lái được sử dụng để thêm vào các thùng nhiên liệu phụ, thay vì ăng-ten UHF liên lạc cỡ lớn. Khả năng mang nhiêu liệu trong các thùng chứa ở cánh cũng đã được nâng lên. Bánh đáp đôi ở mũi có kích thước 620 mm x 180 mm đã thay thế cho bánh đáp đơn 680 mm x 260 mm được sử dụng trên Su-30MK, nhằm thích ứng với việc trọng lượng tăng lên. Trọng lượng cất cánh tối đa và trọng lượng vũ khí mang theo cũng đã tăng lên tương ứng là 38 tấn và 12 tấn. Ghế phóng K-36 ban đầu trên Su-30MK cũng đã được thay thế bằng loại K-36M trên Su-30MKK.
Khả năng chứa nhiên liệu
Su-30MKK có tổng sức chứa tối đa 9720 kg nhiên liệu, bao gồm 4 thùng chứa chính. Thùng số 1 chứa 3.260 kg phía trước, thùng số 2 chứa 4.160 kg ở giữa, thùng số 3 chứa 1.300 kg ở phía sau và thùng số 4 chứa 1.000 kg nằm sau thùng số 2, giữa hai động cơ. Khi tiếp nhiên liệu trên không, Su-30MKK có thể nạp tối đa 2.300 lít/phút. Quá trình này diễn ra ở độ cao từ 2 đến 6 km, với tốc độ 450 đến 550 km/h. Cần tiếp nhiên liệu được đặt phía trước buồng lái bên trái và có thể hoạt động vào ban đêm.
Động cơ
Su-30MKK được trang bị hai động cơ AL-31F, cung cấp lực đẩy mạnh và khả năng cơ động cao. Thời gian bay có thể được kéo dài khi tiếp nhiên liệu trên không. Các nguồn tin từ Trung Quốc cho biết động cơ WS-10 của họ có thời gian giữa các lần đại tu cao hơn so với động cơ Nga sản xuất. Tuy nhiên, điều này chưa được xác nhận bởi các nguồn tin chính thức ngoài Trung Quốc. Do các chuyến bay huấn luyện cường độ cao, động cơ AL-31F chỉ có thời gian giữa các lần đại tu hơn 500 giờ, thấp hơn so với các động cơ tương đương của phương Tây và AL-31FP của Su-30MKI.
Hệ thống điện tử hàng không
Theo phòng thiết kế Sukhoi, nhiều hệ thống điện tử hàng không mới và các hệ thống hiện có đã được nâng cấp để đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc. Những công nghệ này sau đó được áp dụng trên các phiên bản Flanker tiên tiến hơn. Điều này chủ yếu nhờ vào ngân sách nghiên cứu và phát triển cho Su-30MKK cao hơn so với các máy bay khác. Phòng thiết kế thiết bị đo đạc RPKB tại Ramenskoye là nhà thầu chính cung cấp các hệ thống điện tử cho Su-30MKK. Nhiều biện pháp mới đã được thực hiện để đáp ứng các yêu cầu của Trung Quốc, như thiết kế phần mềm kiến trúc mở. Sự phát triển hệ thống điện tử cho Su-30MKK cũng được hỗ trợ bởi 12 nhà máy ở Kiev, Ukraina.
Hệ thống liên lạc
Mã liên lạc vô tuyến VHF/UHF của Su-30MKK có tầm tối đa trên 400 km, trong khi mã liên lạc vô tuyến của Su-30MKK có tầm tối đa trên 1.500 km. Tất cả đều có thể được sử dụng cho liên lạc hai chiều không-không hoặc không-đất. Su-30MKK là máy bay đầu tiên của dòng Flanker được trang bị hệ thống TKS-2 C3, có khả năng chỉ huy và ra lệnh cho 15 máy bay khác được trang bị hệ thống tương tự, cùng với các tên lửa không đối không phóng từ các máy bay đó. Theo Russkaya Avionika JSC, hệ thống liên lạc mã hóa hai chiều C3 có thể được chỉ huy từ trạm mặt đất hoặc hoạt động như trung tâm chỉ huy cho các máy bay khác. Hệ thống này được coi là bước nhảy vọt so với hệ thống một chiều trên Su-27, và là hệ thống đầu tiên của Nga có khả năng tạo ra một mạng lưới khu vực cục bộ.
Tác chiến điện tử
Các nguồn tin từ Nga cho biết hệ thống tác chiến điện tử của Su-30MKK sử dụng công nghệ mới nhất có sẵn tại Nga. Máy thu cảnh báo radar (RWR) cùng với thông tin cung cấp đủ cho tên lửa chống bức xạ Kh-31P, mà không cần sử dụng các hệ thống dò tìm khác trên máy bay. Hệ thống L-150 ELINT cũng có thể được sử dụng với tên lửa Kh-31P. Tầm tối đa của RWR là vài trăm km, phù hợp với tầm bay tối đa 200 km của tên lửa chống bức xạ Kh-31P. Thông tin cảnh báo từ RWR có thể hiển thị trên màn hình LCD đa chức năng (MFD), cho phép phi công quan sát mối nguy hiểm từ 4 mục tiêu cùng một lúc, hoạt động tự động hoặc thủ công. Thiết bị gây nhiễu chủ động được lắp đặt ở đầu cánh và thiết bị phóng mồi APP-50 nằm gần đuôi với 96 mồi nhử khác.
Điều khiển bay
Hệ thống điều khiển fly by wire (FBW - bay bằng dây dẫn số) được thiết kế bởi Russkaya Avionika tương tự hệ thống sử dụng trên Su-30MKI. Nguồn tin từ Nga cho biết Trung Quốc cũng đã phát triển một hệ thống tương tự và dự định sử dụng thay thế hệ thống của Nga. Tuy nhiên, điều này chưa được xác nhận bởi phương Tây và nguồn chính thức từ Chính phủ Trung Quốc. Thông tin chỉ đề cập đến hệ thống fly by wire bản địa của Trung Quốc được phát triển cùng với động cơ tại Triển lãm hàng không Zhuhai lần thứ 6, nhưng chưa có thông tin về hệ thống nội địa của Trung Quốc và các động cơ dự định sử dụng cho các nâng cấp tương lai của Su-30MKK.
Thiết bị hiển thị thông số bay
Điểm đặc biệt của Su-30MKK là buồng lái kính của Russkaya Avionika JSC, mỗi phi công có 2 màn hình hiển thị đa chức năng lớn, bố trí như cái này trên cái kia. Buồng lái trang bị 2 màn hình LCD MFI-9 kích thước 178 × 127 mm (7 × 5 in) ở phía trước và 1 màn hình LCD MFI-9 kích thước 204 × 152 mm (8 × 6 in) MFI-10 ở phía sau. Màn hình hiển thị trước mặt phi công (HUD) cũng được phát triển bởi Russkaya Avionika JSC với tên gọi là SILS-30.
Thiết bị ngắm mục tiêu gắn trên mũ bay
Thiết bị ngắm mục tiêu gắn trên mũ bay (HMS) loạt ASP-PVD-21 ban đầu chỉ giới hạn trong tầm nhìn, đã được thay thế bằng hệ thống HMS Sura-K tiên tiến hơn. Tuy nhiên, Trung Quốc đã thay thế HMS của Nga bằng hệ thống tương tự sản xuất nội địa. Các bức ảnh và đoạn phim công bố từ các nguồn chính thức của chính phủ Trung Quốc như CCTV-7 năm 2007 và tạp chí ảnh của không quân đã xác nhận điều này.
Hệ thống máy tính tác nhiệm
Hệ thống máy tính tác nhiệm mới được phát triển chung bởi Học viện Nghiên cứu Khoa học Hệ thống Hàng không Quốc gia Nga và Russkaya Avionika JSC, có tên gọi là MVK. Máy tính mới này có khả năng thực hiện 10 tỉ phép tính mỗi giây. Mọi thiết bị điện tử hàng không trên máy bay đều đạt tiêu chuẩn MIL-STD-1553. Có 4 máy tính dựa trên nền vi xử lý Baguet-55, 1 cho trung tâm kiểm soát điện tử, 2 cho hiển thị thông tin và 1 cho điều khiển hỏa lực.
Dẫn đường
Các hệ thống dẫn đường tích hợp PNS-10, kết hợp với hệ thống phụ A737, có khả năng sử dụng cả GPS và GLONASS. Tuy nhiên, có tin đồn rằng Trung Quốc đang phát triển một hệ thống dẫn đường riêng có khả năng sử dụng các hệ thống trong nước.
Radar trên máy bay
Radar trên máy bay Su-30MKK đã được nâng cấp nhiều lần và điều khiển bởi hệ thống ngắm mục tiêu tích hợp RLPK-27VE. Hệ thống này được phát triển từ RLPK-27 trên Su-27 và thiết kế bởi Giáo sư Viktor Konstantinovitch Gerishin thuộc NIIP.
- Radar N001VEP: Radar điều khiển hỏa lực N001VEP được thiết kế bởi Tổng công trình sư V.K. Gerishin thuộc NIIP cho 20 chiếc Su-30MKK đầu tiên. Radar này có tầm phát hiện mục tiêu là 100 km và có thể theo dõi đồng thời 10 mục tiêu, có khả năng tiêu diệt 4 mục tiêu trên không hoặc 2 mục tiêu dưới đất trong số 10 mục tiêu đang theo dõi.
Tại triển lãm hàng không Chu Hải lần thứ 6 vào năm 2006, Nga đã tổ chức cuộc họp báo tiết lộ về việc họ đang làm việc với Trung Quốc để phát triển một radar mảng pha quét điện tử bị động để nâng cấp cho Su-27SK và Su-30MKK, dự án do Phazotron thực hiện.
Hệ thống điều khiển hỏa lực trên máy bay
Hệ thống điều khiển hỏa lực trên máy bay tích hợp với radar, thiết bị quang điện, ngắm mục tiêu đặt trên mũ bay, thiết bị tác chiến điện tử bao gồm các máy thu cảnh báo radar và liên kết dữ liệu. Hệ thống gồm có 2 hệ thống phụ: hệ thống phụ không đối không SUV-VEP và hệ thống phụ không đối đất SUV-P.
- SUV-VEP: hệ thống phụ không đối không này có khả năng điều khiển 6 tên lửa không đối không, số lượng tên lửa này lớn hơn số mục tiêu mà radar trên Su-30MKK có thể đồng thời tấn công, do đó để tùy khả năng cho việc nâng cấp radar, việc nâng cấp này sẽ được khai thác sau khi radar quét mảng pha điện tử bị động mới được lắp đặt trên Su-30MK2. Hệ thống phụ SUV-VEP cũng có khả năng điều khiển các tên lửa không đối biển, và thú vị hơn, việc điều khiển bắn tên lửa chống tàu Kh-31A và Kh-35 thường được giao cho hệ thống phụ không đối không SUV-VEP thay vị hệ thống phụ không đối đất SUV-P. Hệ thống con của hệ thống SUV-VEP bao gồm 4 phần chính:
- Hệ thống hiển thị tích hợp SEI-31-10: sử dụng để điều khiển màn hình LCD đa chức năng.
- Hệ thống dò quang điện OEPS-30: Trung Quốc gọi là hệ thống radar quang điện, và nó gồm 2 thành phần chính:
- Hệ thống quang điện OLS-30 (52Sh) nặng 200 kg bao gồm các cảm biến laser và hồng ngoại. Khi so sánh với thiết bị tiền nhiệm là OLS-27 (Izdeliye 36Sh) trên Su-27, tầm phát hiện của cảm biến hồng ngoại tăng lên hơn 90 km so với 50 km của OLS-27. Tầm của cảm biến đo xa tăng lên trên 10 km so với 6 km của OLS-27.
- Hệ thống đặt trên mũ bay (HMS) Sura-K: tầm nhìn tăng lên +/- 60 độ so với +/- 8 độ của hệ thống ASP-PVD-21 HMS sử dụng trên Su-27.
- IFF (hệ thống phân biệt bạn hay thù) và radar trên máy bay cũng được điều khiển bởi hệ thống SUV-VEP.
- SUV-P: hệ thống phụ không đối đất này sử dụng cùng phần cứng của hệ thống phụ không đối không SUV-VEP, nhưng với một yêu cầu xử lý khác nhau. Hệ thống phụ này sử dụng chính để điều khiển các tên lửa không đối bề mặt như Kh-59, và hoạt động như một thiết bị ghép tương thích giữa hệ thống trên máy bay và thiết bị chỉ thị mục tiêu của các tên lửa không đối bề mặt, có thể không được điều khiển trực tiếp bởi hệ thống điện tử trên máy bay. Hệ thống con chính của hệ thống SUV-P là hệ thống con SUO-30PK và hệ thống con dẫn đường bằng vệ tinh A-737.
- Hệ thống con điều khiển vũ khí SUO-30PK: mặc dù Kh-31 thường được điều khiển bởi hệ thống không đối không SUV-VEP, nó cũng có thể được điều khiển qua hệ thống SUV-P thông qua hệ thống con SUO-30PK, hệ thống con này cũng có thể điều khiển hệ thống ELINT L-150. Hệ thống SUO-30PK cũng điều khiển các tên lửa khác như Kh-59, đây là tên lửa có thể được điều khiển thông qua hệ thống ngắm mục tiêu Tekon trên thiết bị APK-9E. Hệ thống con SUO-30PK được phát triển bởi Phòng thiết kế tự động hóa hàng không tại Kursk, và nó có thể được sử dụng để điều khiển các vũ khí không đối đất không dẫn hướng.
Cả hai hệ thống SUV-VEP và SUV-P đều được sử dụng để nâng cấp Su-27SK một chỗ của Trung Quốc, và một đội hỗ hợp của NIIP (Viện nghiên cứu khoa học thiết kế công cụ Tikhomirov) và Nhà máy thiết bị công cụ nhà nước tại Ryazan đã được chỉ định làm nhà thầu chính. Hệ thống SUV-VEP sửa đổi để nâng cấp Su-27SK của Trung Quốc có tên gọi là SUV-VE, trong khi hệ thống SUV-P sửa đổi để nâng cấp Su-27SK của Trung Quốc có tên gọi là SUV-PE. Các đồng hồ hiển thị thông số cũ trên bảng điều khiển bay của Su-27SK đã bị thay thế bởi các màn hình LCD MFD gồm 2 màn hình 6 in x 6 in MFI-10-6M và 1 màn hình MFIP-6. Theo khẳng định của Nga, hơn 60 chiếc Su-27SK của Trung Quốc đã được nâng cấp đến cuối năm 2006.
Phiên bản Su-30MK2
Với hàng loạt cải tiến về hệ thống điện tử hàng không, phiên bản MK2 được thiết kế đặc biệt cho nhiệm vụ tấn công trên biển, hiện đang được Không quân Hải quân Trung Quốc sử dụng. MK2 cũng có khả năng C4ISTAR (hệ thống chỉ huy, điều khiển, truyền tin, máy tính, tình báo, giám sát, bắt mục tiêu và trinh sát) cao hơn so với MKK.
Máy tính tác nhiệm
MVK ban đầu đã được nâng cấp lên MVK-RL với những tính năng vượt trội hơn.
Thiết bị hiển thị thông số bay
Hai màn hình LCD màu đa chức năng MFI-9 kích thước 178 × 127 mm được lắp đặt ở buồng lái phía trước và một màn hình MFI-9 và MFI-10 kích thước 204 × 152 mm được đặt ở buồng lái phía sau thay thế cho bốn màn hình LCD đa chức năng MFI-10-5 kích thước 158 × 211 mm. Cấu hình của hệ thống hiển thị tương tự Su-30MKK, nhưng màn hình mới có độ tin cậy cao hơn.
Hệ thống quang điện tử
Một trong những nâng cấp quan trọng nhất của Su-30MK2 là việc tích hợp các pod quang điện tử (optronic pod) từ Nga, một phần của quá trình nâng cấp từ Su-30MKK ban đầu. Các loại pod optronic bao gồm Sapsan-E và M400, cho phép máy bay mang theo cả pod từ Nga và Trung Quốc.
- Su-30MK2 đã được nâng cấp với một số thiết bị quang điện tử như pod Sapsan-E và M400, cung cấp khả năng quét mục tiêu và trinh sát tối ưu.
Radar trên máy bay
Năm 2000, Trung Quốc đã mua radar Sokol (Falcon) từ Phazotron, được lắp đặt trên Su-30MK2 sau khi hoàn thành phát triển. Radar này có tầm quét rộng và khả năng theo dõi mục tiêu cải thiện so với phiên bản trước đó trên Su-30MKK.
Vào đầu những năm 2000, Nga cấp phép xuất khẩu radar mảng quét điện tử bị động ăng ten Pero cho Trung Quốc. Radar này được thiết kế bởi Tikhomirov và có thể dễ dàng tích hợp vào hệ thống radar N001VEP hiện có mà không cần sửa đổi nhiều. Việc nâng cấp ăng ten Pero giúp radar có thể đồng thời tiêu diệt 6 mục tiêu trên không hoặc 4 mục tiêu dưới mặt đất, tầm phát hiện mục tiêu lên đến 190 km. Radar này còn được gọi là radar Panda (Gấu trúc).
Tuy nhiên, Trung Quốc đã từ chối đề nghị nâng cấp Pero từ Nga, vì nhà sản xuất đối thủ Phazotron đã giới thiệu radar mảng pha mới, được cho là có hiệu suất cao hơn, có tên là Zhuk-MSF. Mặc dù radar Pero dễ tích hợp hơn và nhẹ hơn nhiều so với các lựa chọn khác, nó không được lựa chọn vì sự tăng trọng lượng của các thiết bị nâng cấp khác sẽ làm thay đổi trọng tâm máy bay. Vấn đề này đã được giải quyết bởi Tikhomirov, Sukhoi và Russkaya Avionika tại Triển lãm hàng không Chu Hải 2006 ở Trung Quốc.
Để đáp trả, Tikhomirov đã giới thiệu radar mảng quét điện tử bị động N-011M Bars cho Trung Quốc, là loại radar mạnh nhất của Nga trên máy bay, nhưng Trung Quốc lại từ chối. Lí do cho sự từ chối này vẫn chưa rõ ràng, mặc dù có tin đồn cho rằng Trung Quốc lo ngại về vấn đề chính xác của radar ở tầm xa và sự giống nhau với hệ thống mà Ấn Độ đang sử dụng.
Su-30MK3
Su-30MKK3 được trang bị tính năng mới để lắp đặt cả radar mảng pha Phazotron Zhuk-MSF và radar Panda mới được phát triển dựa trên radar mảng ăng ten Pero. Cả hai radar này đã được Trung Quốc đánh giá.
Radar mới sẽ cải thiện đáng kể khả năng phát hiện mục tiêu của Su-30, đạt tới 190 km đối với mục tiêu trên không và 300 km đối với mục tiêu dưới đất. Zhuk-MFSE cung cấp khoảng cách phát hiện lên tới 180 km đối với mục tiêu có chỉ số RCS 5m2, có thể theo dõi tối đa 30 mục tiêu và đồng thời tấn công 6 mục tiêu ở chế độ không đối không. Radar có trọng lượng 305 kg và sử dụng ăng-ten PESA, đường kính 980 mm với công suất cực đại 8 kW và 16 tần số phát sóng.
Không chắc chắn liệu PLAN hay PLAAF sẽ mua bất kỳ loại máy bay nào, dù họ có lợi thế lớn với các radar đã được nâng cấp. Vì vậy, nếu các radar này được thử nghiệm bởi Trung Quốc, chúng có thể được trang bị cho MKK và MKK2, và có thể là cả Shenyang J-11 vì tình trạng không ổn định của dự án MKK3.
Vào tháng 1-2007, Nga tuyên bố rằng radar mảng pha mới Irbis-E (Báo tuyết-E) do Tikhomirov phát triển sẽ được giới thiệu cho Trung Quốc. Tuy nhiên, việc Trung Quốc chấp nhận radar mới này gặp nhiều khó khăn vì chỉ có Su-35 và Su-37 mới đủ công suất để hỗ trợ radar Irbis-E với 5 kW. Việc mua radar Irbis-E sẽ đòi hỏi Trung Quốc phải đầu tư nâng cấp các phi đội Su-30MKK của mình, điều này sẽ tăng chi phí đáng kể vì Trung Quốc không có khả năng tự thực hiện mà phải phụ thuộc vào Nga hoặc mua Su-35 hoặc Su-37.
Đánh giá về Su-30MKK/MK2
Su-30MKK cho phép lực lượng quân đội Trung Quốc sở hữu máy bay tầm chiến F-15E của Mỹ, và có thể so sánh được với hầu hết các máy bay chiến đấu thế hệ thứ 4. Khả năng sử dụng đa loại vũ khí Nga giúp Su-30 của Trung Quốc có thể tiêu diệt các mục tiêu trên không, dưới đất hoặc biển với độ chính xác cao. Đây là loại máy bay tiêm kích chiến đấu đầu tiên của Trung Quốc trang bị tên lửa không đối không và radar chủ động (mặc dù tên lửa này sẽ được trang bị dần cho các máy bay Flanker khác của Trung Quốc).
Ít nhất có 3 chiếc đã gặp tai nạn cho đến nay, nhưng điều này là do thiếu huấn luyện ban đầu và quá trình sử dụng máy bay mới. Su-30 của Trung Quốc đã được sử dụng thường xuyên, PLAAF và PLANAF đang tích cực đào tạo các đơn vị và tích lũy thêm kinh nghiệm bay.
Su-30MKK và đặc biệt là MK2, với radar có tầm xa và vũ khí tin cậy từ Nga, sẽ đe dọa lớn đối với các tàu của Hải quân Mỹ hoạt động gần lãnh hải của Trung Quốc. KH-31A là một ví dụ cho tên lửa chống tàu tầm xa, được trang bị động cơ tên lửa đủ sức tấn công (lên đến Mach 2,5), tốc độ cao giúp tên lửa có thể đánh bại hệ thống phòng không AEGIS tinh vi trên tàu. Su-30 sẽ sớm thay thế máy bay ném bom H-6 Badger lỗi thời trong vai trò chống tàu và tấn công, với nhiều máy bay tiêm kích-bom mới có khả năng mang nhiều loại vũ khí chính xác khác nhau trong khi có được tầm hoạt động và khả năng mang vũ khí như các máy bay ném bom cũ.
Trung Quốc hiện có hai loại máy bay tiêm kích tấn công tiên tiến là JH-7A và J-11B. JH-7A là phiên bản tiên tiến của Xian JH-7, được trang bị cho PLAAF và PLANAF. Một lợi thế của JH-7A là tính kinh tế so với Su-30, giá thành rẻ hơn nhiều. Khác với Su-30, JH-7A tương thích với cả vũ khí Nga và Trung Quốc, tăng tính linh hoạt. Nhược điểm của JH-7A là thiếu khả năng không chiến, dễ bị tổn thương hơn Su-30. Trọng lượng mang hạn chế của JH-7A cũng giới hạn khả năng mang vũ khí và nhiên liệu trong chiến đấu.
Thiết kế thứ hai của Trung Quốc là máy bay tiêm kích nội địa J-11B. Shenyang J-11 ban đầu được nâng cấp, nội địa hóa và phát triển từ Su-27SK của Nga, nhưng gần đây Trung Quốc đã tự nghiên cứu và phát triển J-11 để tăng cường các tính năng và hệ thống điện tử. J-11B có độ cơ động cao, đặc biệt là khả năng không chiến, tải trọng lớn, radar tiên tiến và tương tự JH-7A, có thể mang được cả vũ khí của Nga và Trung Quốc.
Quốc gia sử dụng
- Trung Quốc
- Không quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc - 73 chiếc Su-30 MKK
- Không quân Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc - 24 chiếc Su-30 MK2
- Venezuela
- Không quân Venezuela - mua 24 chiếc Su-30MK2 trong một hợp đồng trị giá 1,5 tỉ USD, tất cả đã được chuyển giao
- Indonesia
- Không quân Indonesia - 3 chiếc MK2 đã đặt hàng, có khả năng đặt mua thêm 16 chiếc
- Việt Nam
- Không quân Nhân dân Việt Nam hiện đang sở hữu 35 chiếc Su-30MK2V, phiên bản dành riêng cho Việt Nam
Thông số kỹ thuật (Su-30MKK)
Đặc điểm riêng
- Phi công: 2
- Chiều dài: 21.5 m (71 ft 10 in)
- Sải cánh: 14 m (45 ft 11 in)
- Chiều cao: 6.1 m (21 ft 0 in)
- Diện tích cánh: 60m2
- Trọng lượng tải: 24.900 kg (54.900 lb)
- Trọng lượng cất cánh: 34.500 kg (76.100 lb)
- Trọng lượng cất cánh tối đa:
- Động cơ: 2 Lyulka AL-31F, 123 kN (27.600 lbf) mỗi chiếc
Hiệu suất bay
- Vận tốc cực đại: 2.120 km/h (1.140 knots, 1.320 mph)
- Tầm bay: 3.000 km (1.600 nm, 1.900 mi)
- Trần bay: 17.300 m (56.800 ft)
- Vận tốc lên cao:
- Lực nâng của cánh:
- Lực đẩy/trọng lượng: 1.00
- Quãng đường cất cánh: 550 m (1.800 ft)
Vũ khí
Su-30MK có 12 giá treo vũ khí: 2 giá treo ở đầu cánh 3 giá treo dưới mỗi cánh, dưới mỗi động cơ có 1, và 2 giá treo tại điểm tiếp giáp giữa động cơ và cánh. Tải trọng chiến đấu là 8 tấn vũ khí, trong khi tải trọng vũ khí tối đa là 10,4 tấn (tải trọng chiến đấu là lượng vũ khí tối đa mà máy bay có thể mang theo mà vẫn có thể tác chiến hiệu quả, còn tải trọng tối đa là lượng vũ khí lớn nhất mà máy bay có thể mang theo khi cất cánh (nhưng không thể tác chiến hiệu quả do tầm bay bị rút xuống quá ngắn), vì vậy cùng 1 máy bay thì tải trọng tối đa luôn lớn hơn khá nhiều so với tải trọng tác chiến). Phiên bản Su-30MKK được một số nguồn cho rằng có thể mang nhiều vũ khí hơn so với Su-30MKI nhờ sử dụng một số bộ phận làm bằng composite khiến khung thân nhẹ hơn.
- Pháo: 2 khẩu pháo GSh-30-1 cỡ 30mm 150 viên đạn
- Tên lửa:
- Tên lửa không đối đất:
- Tên lửa chống hạm/bức xạ Kh-31A/P
- Tên lửa dẫn đường bằng TV: Kh-29T và Kh-59ME
- Tên lửa không không:
- Tên lửa tầm ngắn dẫn đường bằng hồng ngoại R-73
- Tên lửa tầm trung dẫn đường bằng radar bán chủ động và hồng ngoại R-27
- Tên lửa dẫn đường bằng radar chủ động R-77E
- Tên lửa không đối đất:
- Bom:
- Bom dẫn đường bằng laser KAB-500L và KAB-1500L
- Các loại bom không dẫn đường khác
Hệ thống điện tử hàng không
- 1 chiếc radar điều khiển hỏa lực NIIP N001VEP
- Thiết bị ECM Sorbtsiya