Sumatra
|
|
---|---|
Địa đồ Sumatra | |
Địa lý | |
Vị trí | Indonesia |
Tọa độ | |
Quần đảo
| Quần đảo Sunda lớn |
Diện tích | 473.481 km (182.812 mi) |
Độ cao tương đối lớn nhất | 3,805 m (12,484 ft) |
Đỉnh cao nhất | Kerinci |
Hành chính | |
Indonesia | |
Các tỉnh | Aceh, Bengkulu, Jambi, Lampung, Riau, Tây Sumatera, Nam Sumatera, Bắc Sumatera |
Thành phố lớn nhất | Medan (dân số 2.097.610) |
Nhân khẩu học | |
Dân số | 58,455,800 (tính đến 2019) |
Mật độ | 105 /km (272 /sq mi) |
Dân tộc | Người Aceh, người Batak, người Minangkabau, người Mã Lai, người Trung Quốc |
Sumatra (tên gọi tiếng Indonesia: Pulau Sumatera), là một hòn đảo lớn nằm ở phía tây của Indonesia thuộc Đông Nam Á. Tổng diện tích của nó là 475.807 kilômét vuông, là hòn đảo lớn thứ sáu trên thế giới và là đảo lớn nhất mà Indonesia sở hữu độc lập. Dân số của Sumatra là 59,9 triệu người, đứng thứ hai về dân số ở Indonesia. Sumatra có khí hậu nhiệt đới ẩm. Người dân Sumatra chủ yếu sinh sống ở phía bắc và trung tâm của đảo như Bắc Sumatra, Nam Sumatra và Lampung.
Nằm trên đường xích đạo, Sumatra là một trong bốn hòn đảo lớn chính của quần đảo Sunda Lớn. Phía đông bắc của nó giáp bán đảo Mã Lai qua eo biển Malacca, phía tây giáp Đại Tây Dương, phía đông giáp biển Đông và biển Java, phía đông nam giáp đảo Java qua eo biển Sunda và phía bắc là quần đảo Andaman.
Tên gọi cũ của Sumatra là Suwarnadwīpa (nghĩa là đảo vàng trong tiếng Phạn). Trong các tài liệu cổ đại của Trung Quốc, Sumatra được gọi là Kim Châu (金洲), bởi vì từ lâu nay núi vàng trên đảo Sumatra đã sản sinh ra nhiều vàng không đếm xuể. Vào thế kỷ XVI, danh tiếng là đảo vàng của Sumatra đã thu hút rất nhiều nhà thám hiểm Bồ Đào Nha tới đây để tìm kiếm vàng.
Tóm tắt
Phía đông bắc của Sumatra giáp bán đảo Mã Lai qua eo biển Malacca, phía tây giáp Ấn Độ Dương, phía đông giáp biển Đông và biển Java, phía đông nam giáp đảo Java qua eo biển Sunda, phía bắc là quần đảo Andaman. Chiều dài từ phía nam lên phía bắc khoảng 1.790 kilômét, chiều rộng từ phía đông sang phía tây lớn nhất là 435 kilômét, diện tích tổng cộng là 434.000 kilômét vuông. Sumatra bao gồm nhiều đảo nhỏ xung quanh như Simeulue, Nias, quần đảo Mentawai, Enggano, quần đảo Riau, quần đảo Bangka Belitung và quần đảo Krakatoa, tổng diện tích 475.807 kilômét vuông. Đây là vùng đất thường xuyên xảy ra động đất, với dãy núi Barisan phía tây nam có cấu trúc phức tạp, kéo dài hơn 1.600 kilômét, có nhiều núi lửa và động đất liên tục, với hơn 90 ngọn núi lửa, trong đó có 12 ngọn núi lửa đang hoạt động. Đỉnh cao nhất là núi lửa Kerinci với độ cao 3.805 mét so với mực nước biển. Sườn tây của dãy núi có dạng dốc thẳng đứng, khu vực đồng bằng duyên hải hẹp và không liên tục, cộng thêm sự ảnh hưởng của sóng biển mạnh từ Ấn Độ Dương, không có nhiều cảng biển. Sườn đông của dãy núi thoai thoải, địa hình có đá lớp lớp với các dòng dầu mỏ, khí tự nhiên và than chất lượng tốt. Từ phía bắc đến phía nam, Sumatra có ba vùng mỏ dầu lớn bao gồm Bắc Sumatra, Trung Sumatra và Nam Sumatra. Phía đông bắc là đồng bằng lớn với độ cao khoảng 30 mét so với mực nước biển, rộng hơn 100 kilômét. Vùng duyên hải phía đó phân bố nhiều đầm lầy, chiều dài khoảng 1.000 kilômét từ bắc xuống nam, diện tích khoảng 150.000 kilômét vuông, với một số đầm lầy sâu đến 240 kilômét, là khu vực đầm lầy lớn nhất Đông Nam Á. Sumatra có nhiều dòng sông chảy từ dãy núi Barisan, các dòng sông ở sườn tây ngắn và dốc, chảy xiết với nhiều ghềnh và thác nước, không thuận lợi cho việc đi tàu thuyền. Các dòng sông ở sườn đông dài và dốc nhẹ, dòng chảy chậm và uốn lượn, mang theo nhiều bùn cát và mùn, tạo thành mạng lưới sông chủ yếu như sông Musi, sông Batang Hari, sông Indragiri, sông Kampar và sông Rokan, tất cả đều có thể thông tàu và kết nối với các đường sắt và đường bộ hướng tây bắc - đông nam, tạo thành hệ thống giao thông quan trọng. Các công trình thủy điện lớn nhất Sumatra như đập Tangga và đập Sigura-gura trên sông Asahan, có công suất lắp đặt lần lượt là 317MW và 286 MW (en).
Xích đạo cắt ngang qua trung tâm Sumatra, với nhiệt độ cao và lượng mưa lớn. Khu vực này có tỷ lệ rừng rậm phủ mặt đất lên đến 60%, đa phần là rừng mưa nhiệt đới. Ở phía đông, đồng bằng duyên hải có nhiều rừng ngập mặn và đầm lầy than bùn rộng lớn, ven biển là rừng ngập mặn, trong khi mũi bắc của đảo có thảo nguyên rừng thưa, cao nguyên Karo thì có rừng thông. Sumatra có nhiều loại khoáng sản và nông sản, bao gồm dầu mỏ, cao su, dầu cọ, thiếc, tiêu, dứa khô và sợi dứa, là những sản phẩm hàng đầu của Indonesia. Ngoài ra còn có than đá và vàng, cùng với hoạt động khai thác mỏ, công nghiệp cơ giới, hóa chất, và chế biến thực phẩm. Các cảng biển và thành phố chính của Sumatra gồm có Medan, Palembang, Padang, Bandar Lampung,...