



Súng phun lửa hay còn được biết đến với tên gọi súng phóng điểu là loại súng cá nhân nòng nhẵn được làm từ một ống kim loại với một đầu bịt kín; thuốc súng và viên đạn được nạp qua miệng, thuốc súng được đốt qua một lỗ nhỏ (lỗ đốt) khoét ở bên hông; cơ chế đánh lửa sử dụng dây cháy chậm hoặc kích nổ.
Súng phun lửa được phát minh vào đầu thế kỷ 16. Đến đầu thế kỷ 18, súng phun lửa trở thành vũ khí chính của các quân đội phương Tây.
Phương tiện này không sử dụng đạn nguyên vỏ cứng, mà sử dụng viên đạn bọc thuốc súng và đầu đạn chì được bao trong một túi nhỏ hoặc giấy bọc. Khi nạp đạn, xạ thủ phải sử dụng răng cưa để xé lớp bọc đầu súng, đổ thuốc súng vào ống nổ, đưa viên đạn vào thông qua lỗ nòng trước khi có thể bắn được. Quá trình này, với binh lính mới, mất khoảng 20 giây, vì vậy súng phun lửa không thể nạp đạn nhanh như súng trường với hộp đạn.
Để
Cách cách mạng công nghiệp đã ghi nhận nhiều thay đổi như thay đổi từ xe ngựa kéo thành đầu máy hơi nước, từ nông trang sang nhà máy và rất nhiều thay đổi khác, súng phun lửa dần mất đi giá trị của nó và đã bị thay thế bởi các loại súng trường sử dụng đạn nguyên vỏ kim loại, và dần bị lãng quên vào thời kỳ Đại chiến thế giới thứ nhất.
Súng hỏa mai tại Việt Nam
Tại Việt Nam, súng hỏa mai 火枚, hay trong văn bản hành chính Đàng Ngoài gọi là Hiệp Súng 挾銃, Đàng Trong gọi là Điểu Thương 鳥鎗, là loại vũ khí phổ biến từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Các chúa tể như vua nhà Lê, vua nhà Mạc, chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều trang bị súng hỏa mai với số lượng lớn cho quân đội. Sử sách và văn học đều ghi chép rằng các trận chiến thời kỳ này 'đạn bay như sao sa'. Ca dao Đàng Trong cũng ghi lại hình ảnh những người lính dũng cảm:
“ | Ngang lưng thì thắt đai vàng
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài Một tay thì cắp hỏa mai Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền Tùng tùng trống đánh ngũ liên, Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
|
” |

Vào thời đầu triều Nguyễn, súng hỏa mai với sự hỗ trợ của dây thừng hoặc đá lửa dần dần bị thay thế bằng súng trường tiên tiến hơn, sử dụng thuốc súng và vỏ đạn giống như các nước phương Tây thời đó. Tuy nhiên, sau thời Minh Mạng, do tài chính quốc gia suy yếu, súng trường lại bị súng hỏa mai thay thế, nhưng với số lượng ít hơn nhiều so với các thế kỷ trước đó. Trước khi Pháp xâm lược, trung bình mỗi 10 binh sĩ nhà Nguyễn thì chỉ có 1 người được trang bị súng hỏa mai. Vào giữa thế kỷ 19, khi quân Pháp xâm lược, trước sức mạnh của đối thủ với lượng súng trường lớn và hiện đại, quân nhà Nguyễn chỉ còn lại ít khẩu súng hỏa mai với chất lượng đã lạc hậu.