
Súng máy nhỏ là loại vũ khí cá nhân dùng cho phạm vi gần, thuộc dòng súng máy và cũng là loại súng tự động theo phân loại của từng quốc gia. Súng máy nhỏ có thể có tầm bắn lý thuyết lên đến 1.000 mét, nhưng tầm hữu dụng thường không quá 400 mét, có loại chỉ có 100 mét (M3); đường kính nòng dao động từ 5.56mm (M16) đến 12mm (M3), phổ biến nhất là hai đường kính 5.56mm (tiêu chuẩn NATO) và 7.62mm (tiêu chuẩn Warsaw Pact). Nhờ vào cấu trúc sử dụng khí bắn gián tiếp hoặc trực tiếp để khóa nòng cùng lò xo đẩy đạn, lò xo khóa nòng để nạp tự động, súng máy nhỏ có thể bắn từng phát hoặc bắn liên tục. Tốc độ bắn trong thử nghiệm có thể lên đến 600 phát/phút. Trong thực tế, tốc độ bắn thường khoảng 100 phát/phút. Hộp đạn có thể chứa từ 20 đến 40 viên. Một số loại súng máy nhỏ lớn như AK-47 hay M16 có thể lắp khung bắn để có thể bắn cạnh. Trong chiến đấu, súng máy nhỏ tạo ra mật độ bắn cao khi tấn công bằng cách bắn rải, bắn quét. Trong phòng thủ, súng máy nhỏ có độ chính xác khá cao khi bắn tập trung (2 hoặc 3 phát liên tiếp).
Lịch sử phát triển
Súng máy nhỏ đầu tiên được phát minh tại Đức là khẩu MP-18/1 và được gọi là Maschinenpistole có nghĩa là «súng máy ngắn tự động»; được người Đức sử dụng từ cuối Thế chiến I. Sau Thế chiến I, Hoa Kỳ cũng đã thử nghiệm và sản xuất khẩu súng máy nhỏ Thompson do tướng John Taliaferro Thompson thiết kế dùng đạn cỡ 11.43mm nhưng chưa bắt đầu sử dụng khi chiến tranh kết thúc. Từ năm 1918 và trong Thế chiến II, các quốc gia có nền công nghiệp vũ khí đã phát triển và sản xuất các loại súng máy nhỏ khác nhau để trang bị cho lực lượng bộ binh. Hoa Kỳ có súng máy nhỏ Thompson và M3 Grease Gun, Pháp và Việt Nam có súng máy nhỏ MAS-38, Vương quốc Anh và Bắc Ireland có súng Sten. Cho đến giữa năm 1941, Liên Xô mới ra mắt khẩu súng máy nhỏ PPSh-41 với súng bắn tự động tròn.
Trong Thế chiến II, quân Đức phát triển và sản xuất rộng rãi khẩu súng máy nhỏ MP-40. Mỗi đại đội bộ binh của Lục quân Đức Quốc xã hay Wehrmacht thường có một trung đội sử dụng súng máy nhỏ MP-40. Các loại súng máy nhỏ của Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Nga cũng được sản xuất hàng triệu khẩu và sử dụng rộng rãi.
Sau Thế chiến II, nhà phát minh Xô Viết Mikhail Timofeevich Kalashnikov đã thiết kế các mẫu súng AK-1 và AK-2 với những tính năng nổi bật như sử dụng tiện lợi trong các điều kiện khắc nghiệt như băng giá, ẩm ướt, bùn lầy hoặc sa mạc cát bụi. Đến năm 1947, súng AK-47 ra đời và được trang bị cho Hồng quân Liên Xô. Mặc dù là loại súng máy nhỏ nhưng với nòng dài đến 41cm và sử dụng đạn súng trường, nó được NATO xếp vào loại súng trường tự động (khác biệt với súng trường bán tự động và súng trường không tự động).
Trong Chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ đã trang bị cho mình và các đồng minh súng máy nhỏ M16-A1 - loại súng máy nhỏ bắn liên tục. Loại súng trường này nhẹ và sử dụng đạn 5.56×45mm NATO, cho phép binh lính mang theo nhiều đạn hơn. Tuy nhiên, do đạn 5.56mm nhỏ, thường xuyên xuyên thủng mục tiêu, ít gây ra vết thương lớn và binh lính Hoa Kỳ thường phụ thuộc vào tốc độ bắn cao, dẫn đến tiêu thụ đạn cao nhưng hiệu quả sát thương không cao đối với đối phương. Trong khi đó, đạn 7.62×39mm từ khẩu AK-47 có kích thước và sức mạnh lớn hơn, mang lại hiệu quả gây sát thương cao hơn với các vết thương lớn.
