Sybil Ludington | |
---|---|
Tượng Sybil Ludington ở Carmel, New York bởi Anna Hyatt Huntington. | |
Sinh | |
Mất | 26 tháng 2, 1839 Catskill, New York, Hoa Kỳ | (77 tuổi)
Phối ngẫu | Edmond Ogden (kết hôn năm 1784) |
Con cái | 1 |
Sybil Ludington (5 tháng 4 năm 1761 - 26 tháng 2 năm 1839), con gái của Đại tá Henry Ludington, được biết đến với tư cách nữ anh hùng của cuộc chiến tranh Cách mạng Mỹ, đã cưỡi ngựa suốt đêm 26 tháng 4 năm 1777 để cảnh báo các lực lượng dân quân bản địa về sự xuất hiện của quân Anh. Hành động này, mặc dù đã trở thành truyền thuyết và không có bằng chứng rõ ràng, nhưng vẫn là một phần quan trọng trong lịch sử dân tộc Mỹ.
Tiểu sử
Sybil sinh ra tại Fredericksburg (nay là Ludingtonville), Kent, New York. Là đứa con đầu lòng trong mười hai anh chị em của gia đình, Sybil là con gái của Lewis Ludington và Abigail Knowles Ludington. Gia đình cô chuyển đến quận Dutchess, New York, nơi họ định cư và làm ruộng.
Ludington cưỡi ngựa trong đêm
Vào ngày 26 tháng 4 năm 1777, Sybil Ludington đã phi ngựa bốn mươi dặm trong đêm để cảnh báo khoảng 400 dân quân dưới sự chỉ huy của cha cô về kế hoạch tấn công của quân Anh vào Danbury, Connecticut, nơi quân đội Lục quân đang đóng quân. Trên đường đi để tập hợp quân của cha mình, cô đã cảnh báo dân Danbury. Cha cô, Đại tá Henry Ludington, đã là một chiến binh kỳ cựu trong chiến tranh Pháp và Ấn Độ và sau đó là tướng lĩnh của quân đội địa phương trong Cách mạng Mỹ. Vì vị trí của cha mình, Sybil đã phải di chuyển từ thị trấn này sang thị trấn khác theo ông, và đã đóng vai trò quan trọng trong chiến thắng của các đồng minh. Sau chuyến đi của Sybil qua Danbury, quân Anh đã phá hủy ba tòa nhà và gây thiệt hại nặng nề cho nhiều ngôi nhà, nhưng may mắn là không có nhiều người bị thương. Không giống như Paul Revere, ít người biết đến chuyến phi ngựa của Sybil Ludington vì lý do cá nhân và chỉ có một bản ghi chép duy nhất của sự kiện này được viết bởi cháu gái lớn của cô. Ludington bắt đầu chuyến đi vào lúc 9 giờ tối và kết thúc vào khoảng bình minh. Cô đã di chuyển 40 dặm (khoảng 64 km) trong đêm mưa gió. Cô đi qua Carmel, rồi Mahopac, rồi Kent Cliffs, rồi đến Farmers Mills trước khi trở về nhà. Cô đã sử dụng một cây gậy để động viên ngựa và gõ cửa. Cô cũng đã cố gắng tự vệ trước một người lạ bằng một cây gậy dài. Ướt sũng vì mưa và mệt mỏi, cô trở về nhà khi hơn 400 lính đã sẵn sàng để hành quân.
Những dân quân đã đến quá muộn để cứu Danbury, Connecticut. Tuy nhiên, vào thời điểm bắt đầu trận đánh Ridgefield, họ đã đẩy lùi tướng William Tryon, thống đốc thuộc địa New York, và quân đội của ông ta, đến Long Island Sound. Sybil đã được vinh danh vì sự anh hùng của mình bởi bạn bè và hàng xóm cũng như Tướng George Washington. Sau chiến tranh, vào năm 1784 khi cô 23 tuổi, Sybil Ludington kết hôn với Edmond Ogden và họ có một đứa con gọi là Henry. Edmond là một nông dân và quản gia theo các báo cáo khác nhau. Năm 1792, cô sống với chồng và con trai tại Catskill cho đến khi qua đời vào ngày 26 tháng 2 năm 1839, ở tuổi 77. Cô được chôn cất gần người cha của mình tại nghĩa trang Presbyterian Patterson ở Patterson, New York. Tấm bia của cô cho thấy một cách viết khác tên của cô.
Năm 1935, tiểu bang New York đã đặt một số biển báo dọc theo đường đi của mình. Một bức tượng của Sybil, được điêu khắc bởi Anna Hyatt Huntington, đã được xây dựng gần Carmel, New York vào năm 1961 để tưởng niệm. Các bản vẽ nhỏ của bức tượng này hiện còn tồn tại tại Trụ sở Nữ hoàng của Cách mạng Hoa Kỳ ở Washington, DC; thư viện công cộng Danbury, Connecticut; và trong Bảo tàng Elliot và Rosemary Offner tại Brookgreen Gardens, Murrells Inlet, South Carolina.
Năm 1975, Sybil Ludington đã được vinh danh với một con tem bưu chính trong loạt 'Lễ kỷ niệm 200 năm' của Nhóm Người Cộng tác với Nguyên Nhân.
Vào tháng 4 năm 1979, cuộc đua xe đạp theo đường cưỡi ngựa Sybil Ludington 50 km đã được tổ chức tại hồ Gleneida, Carmel, New York. Cuộc đua này tái hiện lại chuyến đi lịch sử của Sybil và kết thúc gần bức tượng của cô bên bờ hồ Gleneida, Carmel, New York. Nhà thơ Berton Braley đã viết một bài thơ về sự kiện này. Dưới đây là đoạn trích của bài thơ đầy đủ được xuất hiện trong Tạp chí Milwaukee vào năm 1940.