Bút pháp tả cảnh ngụ tình là gì?
Tả cảnh ngụ tình là một trong những thi pháp quen thuộc của văn học trung đại, nổi bật với đặc trưng sùng cổ, phi ngã và ước lệ. Phương pháp này dùng hình ảnh để gợi tả tâm trạng, cảm xúc của nhân vật hơn là mô tả trực tiếp. Các bút pháp như chấm phá, đòn bẩy, lấy động tả tĩnh, và lấy điểm tả diện đều thuộc về thể loại này, nhưng tả cảnh ngụ tình là phương pháp nổi bật nhất. Cảnh vật chỉ là phương tiện để làm nổi bật tâm trạng của nhân vật trữ tình, từ đó làm cho cảnh vật mang màu sắc tâm trạng của nhân vật và tác giả.
Bút pháp tả cảnh ngụ tình rất phổ biến trong văn học trung đại. Do yêu cầu nghiêm ngặt về luật niêm và thể thơ, phương pháp này giúp diễn tả sâu sắc cảm xúc và tâm trạng của nhân vật trong khuôn khổ từ ngữ hạn chế. Sự gợi tả tinh tế này là kết quả của việc sử dụng văn pháp thẩm mỹ và nghệ thuật để diễn đạt một cách súc tích và ấn tượng.
Ví dụ: Trong đoạn trích từ Cảnh ngày xuân, mặc dù chỉ có hơn 20 dòng thơ, nhưng đoạn này đã khắc họa rõ nét những khó khăn và thử thách mà Kiều sẽ phải đối mặt trong cuộc đời sắp tới. Cụ thể là:
'Ngày xuân, con én bay đi bay lại'
Ánh sáng mùa xuân đã tàn, chỉ còn lại tuổi tác ngoài sáu mươi'
Cánh đồng cỏ non xanh bạt ngàn'
Cành lê trắng chỉ có vài bông hoa nở'
Khung cảnh mùa xuân hiện lên qua những hình ảnh đặc trưng như cánh én, nắng xuân, cỏ non và cành lê. Tuy nhiên, Nguyễn Du chọn thời điểm cuối xuân, không phải lúc xuân mới bắt đầu hay rực rỡ, mà là khi mùa xuân chuẩn bị kết thúc. Vào thời điểm này, thiên nhiên dường như vẫn cố gắng thể hiện sức sống còn sót lại, chuẩn bị cho sự chuyển giao mùa. Sự lựa chọn này gợi lên nỗi niềm tiếc nuối về thời gian tươi đẹp sắp qua đi. Bức tranh thiên nhiên chủ yếu là màu xanh của cỏ non, tuy hài hòa nhưng bình dị. Thay vì những loài hoa xuân rực rỡ như mai hay đào, Nguyễn Du chọn hoa lê trắng - màu sắc thanh khiết nhưng mong manh, tượng trưng cho sự dễ vỡ, như thân phận của người phụ nữ tài sắc mà chuân chuyên.
2. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong 8 câu cuối của Kiều ở lầu Ngưng Bích
Nguyễn Du là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn từ và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để diễn tả tâm trạng nhân vật. Bút pháp này mượn hình ảnh cảnh vật để thể hiện tâm trạng con người, hòa quyện giữa tình và cảnh. Nguyễn Du thể hiện quan điểm của mình qua việc mô tả cảnh vật như sau:
'Cảnh nào mà không gắn liền với nỗi sầu'
'Người buồn, liệu có ai vui được đâu'
Nguyễn Du, với tài năng miêu tả tinh tế, đã kết hợp cảnh vật thiên nhiên và tâm hồn con người một cách hoàn hảo. Ông dùng hình ảnh thiên nhiên để phản chiếu tâm trạng nhân vật, tạo nên sự hòa quyện giữa người và cảnh. Trong truyện Kiều, mỗi bước đi của Kiều đều gắn liền với cảnh sắc thiên nhiên, giúp nhân vật bày tỏ tâm trạng của mình qua các bức tranh thiên nhiên đa dạng. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du đạt đến đỉnh cao với bức tranh hòa quyện tình và cảnh trong đoạn 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'.
Trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích', Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp độc đáo để khắc họa cảnh vật và tâm trạng của Kiều thông qua các điển tích cổ Trung Quốc. Từ nỗi buồn của nhân vật, Nguyễn Du đã khéo léo tô thêm sắc xám vào ánh nhìn xa xăm của Kiều, làm nổi bật nỗi sầu qua tám câu kết thúc đoạn trích:
'Buồn nhìn cửa bể lúc chiều tà'
'Thuyền nào lờ mờ, cánh buồm xa xôi'.
Nhà thơ đã sử dụng khung cảnh thiên nhiên để thể hiện sự chuyển động nội tâm của nhân vật. Cảnh 'cửa bể chiều hôm' gợi lên hình ảnh buồn bã và lưu luyến. Ánh nắng cuối ngày phản chiếu lên mặt nước xanh thẳm, làm không gian trở nên tối tăm, như niềm tiếc nuối của Kiều về những ngày xưa. Con thuyền và cánh buồm xa xăm, mờ mịt trong hoàng hôn, tượng trưng cho những hy vọng mờ nhạt của nàng. Cảnh hoa trôi trên dòng nước phản chiếu nỗi buồn về thân phận trôi nổi, không biết sẽ ra sao.
'Nhìn dòng nước chảy, nỗi buồn lan tỏa'
'Hoa trôi lững lờ, không biết về đâu!'
Cánh hoa yếu ớt, trôi dạt trước dòng nước từ trên cao, giống như Kiều, một cô gái nhỏ bé bị cuộc đời xô đẩy. Cảnh vật khiến Kiều cảm thấy xót xa cho số phận của chính mình. Sau hình ảnh hoa bị vùi dập là cảnh nội cỏ, nhưng nội cỏ đó lại toát lên vẻ rầu rĩ:
'Nhìn nội cỏ xơ xác, đầy u buồn'
'Chân mây và mặt đất hòa một màu xanh lơ'
Tuy nhiên, nội cỏ không còn giữ màu xanh tươi mới, mà từ 'rầu rầu' gợi lên sự tàn úa đáng thương. Trong bức tranh này, Nguyễn Du đã chọn màu xanh làm chủ đạo, nhưng đó là màu xanh u ám, héo hắt, khiến cảnh vật trở nên ảm đạm hơn. Kiều tìm kiếm hy vọng trong màu xanh ấy, nhưng lại chỉ thấy sự buồn bã và tuyệt vọng gia tăng.
Khi rơi vào trạng thái tuyệt vọng, Kiều cảm thấy như mình đang lạc lõng
'Buồn nhìn gió cuốn mặt nước xô bồ'
'Tiếng sóng ầm ầm vọng quanh ghế ngồi'
Gió mạnh thổi sóng vỗ ầm ầm, cảnh vật dường như cũng mang vẻ hưu quạnh, phản chiếu tâm trạng của Kiều, khi mặt biển dậy sóng thì lòng nàng cũng không yên. Sóng dữ dội như báo hiệu sự bất an, cảnh báo một tương lai đầy bão tố đang chờ đợi Kiều. Tám câu thơ kết hợp thành một bức tranh toàn cảnh với biển cả, chân mây, hoa, nội cỏ, sóng và gió, vừa buồn bã vừa đáng sợ. Bức tranh thiên nhiên này thể hiện sự cô đơn và lo lắng trước tương lai mịt mù, cho thấy sự tinh tế của Nguyễn Du trong việc sử dụng hình ảnh thiên nhiên để diễn tả tâm trạng của Thuý Kiều, như được ca ngợi: 'như máu chảy và thấu nghìn đời'.
Qua tám câu cuối trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích', ta nhận thấy sự tinh tế trong việc cảm nhận thiên nhiên và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du. Bằng những nét vẽ giản dị và ngôn từ mộc mạc, Nguyễn Du đã thổi hồn vào cảnh vật, khiến bức tranh thiên nhiên phản ánh sâu sắc tâm trạng của Thuý Kiều.
Bài viết đã trình bày khái niệm và phân tích về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong tám câu cuối đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'. Mong rằng những thông tin này sẽ hữu ích cho bạn. Xin cảm ơn bạn đã đọc!