TOP 130 bài văn Tả về danh lam thắng cảnh đẹp, đặc sắc, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu thêm về lịch sử và vẻ đẹp của các cảnh đẹp tại Việt Nam.
Mỗi danh lam thắng cảnh đều có vẻ đẹp và đặc điểm riêng. Hãy tham khảo 130 bài văn tả về Hồ Ba Bể, Vịnh Hạ Long, Chùa Hương, Văn Miếu Quốc Tử Giám, Bến Nhà Rồng, Chùa Cổ Lễ, Thành Cổ Loa... để có thêm vốn từ và viết tả hay.
Tả Hồ Ba Bể
Hồ Ba Bể nằm tại xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn cách Hà Nội hơn 200km về phía Bắc. Từ thành phố Bắc Kạn đi Hồ Ba Bể khoảng 70km về phía Tây Bắc. Hồ Ba Bể là tổ hợp của 03 hồ Pé Lèng, Pé Lù và Pé Lầm; là nơi giao thoa của 3 dòng sông là Sông Năng, Tả Hàn và Nam Cường; hồ có chiều dài hơn 8km, rộng nhất 2km, diện tích mặt nước 500 ha, độ sâu trung bình 20m, sâu nhất 35m, chứa khoảng 90 triệu m3 nước; nổi bật với nhiều hòn đảo nhỏ như Đảo Bà góa, đảo Phong Lan, đảo An Mạ, ao Tiên… đáy hồ đồi núi, sống các loài cá quý hiếm như cá chép kính, cá dầm xanh, cá chiên... Hồ Ba Bể là kỳ quan thiên nhiên đẹp mê hồn, là điểm đến lý tưởng cho du khách.
Theo truyền thuyết: Hồ Ba Bể xưa là vùng đất đai trù phú, dân cư đông đúc, mùa màng bội thu, muông thú hội tụ, ca hát líu lo, cuộc sống an lành. Một lần, dân làng mở hội lồng tồng vui chơi ca hát; trên trời, Bụt hóa phép thử lòng dân. Kết thúc hội, mọi người thấy con bò vàng lạ, không chủ, những kẻ xấu trong bản bắt và thịt, chia nhau ăn uống, chỉ còn mẹ con Bà góa nghèo. Sau đêm trăng, mọi thứ biến mất, chỉ nhà mẹ con Bà góa còn nguyên. Nhận ra việc làm từng trải qua, họ giúp dân bản cứu lấy cuộc sống.
Nằm ở độ cao 150m so với mực nước biển, hồ Ba Bể được bao quanh bởi dãy núi đá vôi và sa thạch cổ, rừng già, nước trong xanh, mát mẻ, toàn cảnh hồ như bức tranh thủy mặc, lồng lộng mây trời, phản chiếu dãy núi uốn lượn trên mặt hồ. Đặc biệt, cây cỏ mọc từ đá. Hồ Ba Bể là một điểm đến lý tưởng, khiến bất kỳ ai cũng phải say đắm.
Hàng năm từ ngày 10 đến 13 tháng giêng, hội xuân Ba Bể sôi động; ngày hội diễn ra sau mùa màng kết thúc, dân bản nghỉ ngơi, du khách từ xa đến tham gia, chia vui với bà con dân tộc, thưởng thức nhiều hoạt động vui nhộn như múa khèn Mông, lễ hội Tày, ca hát dân ca Sán Chay, các trò chơi dân gian như tung còn, bắt dê, chọi bò, thi đua thuyền Độc Mộc trên hồ... Đặc biệt là thuyền Độc Mộc, biểu tượng của hồ Ba Bể, được tạo ra từ thân cây gỗ, thể hiện sự điêu luyện của người chèo thuyền.
Xung quanh hồ là các bản nhà sàn của người Tày, sau một ngày tham quan hồ, du khách có thể dừng chân nghỉ ngơi tại đây, thưởng thức ẩm thực truyền thống của người dân địa phương, cùng thưởng thức tiết mục văn nghệ độc đáo từ đội văn nghệ thôn Pác Ngòi.
Bên cạnh thăm các điểm du lịch trong lòng hồ Ba Bể, du khách có thể đi tham quan các điểm du lịch khác trong khu vực như động Puông, thác Đầu Đẳng, động Hua Mạ, thác Bạc, hang Thẳm Phầy, Đồn Đèn, vườn hoa Ly, khoai Lệ Phố, các bản làng người Mông, Dao, và tham gia các hoạt động như leo núi, thăm làng dân tộc, nghiên cứu khoa học, du lịch nghỉ dưỡng.
Với cấu trúc địa chất độc đáo, hồ Ba Bể được xem là một trong 20 hồ đẹp nhất thế giới cần được bảo vệ. Năm 2004, Vườn quốc gia Ba Bể được công nhận là Vườn di sản Asean và năm 2012 được công nhận là di tích cấp Quốc gia đặc biệt và là khu Ram Sa thứ 3 của Việt Nam. Với không khí mát mẻ quanh năm của núi rừng và sông nước, du khách có thể tham quan Hồ Ba Bể bất cứ thời gian nào trong năm.
Thuyết minh về Tràng An Cổ
'Ai là dòng dõi của Rồng Tiên
Tháng hai khi hội hè Trường Yên nở hoa
Quay về thăm kinh đô Đinh Lê nguyên
Non xanh nước biếc bốn phía như tranh”
(trích)
Mọi du khách đã từng ghé qua Ninh Bình, không ai không muốn thăm Tràng An cổ - con tim của kinh đô Hoa Lư. Cũng như những người khác, tôi và bạn bè đã được dịp đến tham quan và mãn nhãn trước vẻ đẹp của nơi này.
Dọc theo con đường trải dài vô tận, bên cạnh những trận cờ oan trái gắn bó với lịch sử rực rỡ, con người trở về nơi thiêng liêng – Tràng An Cổ. Đất Ninh Bình là nơi sinh ra vị vua tài ba Đinh Bộ Lĩnh, người đã góp phần xây dựng triều đại độc lập cho nước Việt. Mỗi cảnh đẹp ở Tràng An Cổ đều kể về một trang sử lịch sử, một phần của triều đại Đinh Tiên Hoàng.
Chúng tôi, những con người trở về với nguồn cội, linh hồn của dân tộc Việt Nam – nơi vua Đinh đã từng ở, cảm nhận được không khí thiêng liêng thực sự là một kinh nghiệm khó quên. Tràng An Cổ mang lại cho chúng tôi một cảm giác yên bình và tâm linh, là nơi kết nối với quá khứ lịch sử của dân tộc Việt Nam.
Bước vào Tràng An Cổ, du khách nghe những âm thanh của thiên nhiên tại cố đô Hoa Lư. Trên những bậc thang đá, họ tìm đến ngôi đền tôn vinh vua Đinh Tiên Hoàng và các nhân vật lịch sử quan trọng. Ngôi đền tỏa sáng giữa vùng đất rộng lớn như một viên ngọc, là nơi dân tộc Việt Nam dâng hương tri ân tổ tiên.
Truyền thống kể rằng, Đinh Bộ Lĩnh và các danh tướng từng trú ngụ ở đây, trước khi ra trận hay tổ chức lễ cờ, luôn tổ chức lễ tạ ơn khi trở về. Do đó, trên cửa phủ treo bức đại tự: Khai môn kiến hỉ (Mở cửa gặp may). Do đó, mọi người khi đến đây, ai cũng cùng nhau cầu chúc may mắn, hạnh phúc, giàu sang phát tài. Không chỉ vậy, chúng ta cũng thể hiện sự tôn trọng đối với các danh tướng thời Đinh đã hy sinh để giúp đỡ dân tộc. Mọi người như được ngập tràn trong không khí lịch sử vĩ đại. Sâu trong tẩm điện là cung thờ hoàng đế Đinh Tiên Hoàng. Tại đây, người đã khai môn xưng vạn thắng, đánh bại mười hai sứ quân, lập nước Đại Cồ Việt, với mong muốn đem lại sự bình yên cho dân chúng. Rời khỏi đền, tiếp tục trên những bậc thang đá là đến Giếng Giải Oan – nơi giải thoát cho những linh hồn oan ức được siêu thoát và cứu rỗi. Đây cũng là một trong những tín ngưỡng dân gian của chúng ta.
Vì vậy, cửa hang Đại Tôn thiết lập ban thờ Thập Bát Long thần như vậy. Khi gặp khó khăn, khi làm việc lớn, con người tìm đến đây để cầu nguyện và giải cứu từ những nguy cơ.
Sau khi thăm quan ngôi đền, mọi người sẽ có cơ hội du ngoạn trên dòng sông. Theo dòng nước Sào Khê lịch sử, ta được lắng nghe tiếng hướng dẫn viên kể về lịch sử vàng của quê hương dưới tiếng mái chèo êm đềm hòa cùng thiên nhiên. Dòng Sào Khê lịch sử chảy qua cố đô Hoa Lư theo hướng Tây Bắc - Đông Nam đưa chúng ta qua hang Luồn. Ở đây, chúng ta chiêm ngưỡng những dấu ấn lịch sử chạm khắc trên đá. Qua hàng ngàn năm lịch sử, những dấu vết vẫn còn nguyên vẹn và trở thành dấu ấn văn hóa chỉ có ở Tràng An Cổ lưu truyền qua thời gian. Du khách được lạc mình dưới những dãy núi đá vôi lấp lánh. Về đất Ninh Bình, Tràng An Cổ không chỉ đưa ta trở lại với câu chuyện lịch sử hùng vĩ mà còn là hành trình khám phá vẻ đẹp của quê hương.
Ngày nay, Tràng An Cổ được bảo tồn và giữ gìn để vẫn mang trong mình nét cổ kính, thiêng liêng. Tuy nhiên, cũng có những thay đổi. Công trình khai quật và phục hồi đang được tiến hành để mang lại trải nghiệm tốt hơn cho du khách và hiểu rõ hơn về Tràng An Cổ liên quan đến triều đại nhà Đinh thời xưa.
Tràng An cổ từ lâu đã trở thành một điểm đến không thể thiếu trong hành trình khám phá văn hóa cổ truyền của đất nước. Tràng An cổ là niềm tự hào của người dân Ninh Bình và của người Việt Nam nói chung đối với bạn bè quốc tế, những người đã có dịp trải nghiệm và tham gia vào cuộc sống văn hóa phong phú của đất nước.
Giới thiệu về Chùa Cổ Lễ
Việt Nam chúng ta có nhiều di tích lịch sử, danh thắng đẹp mắt khiến thế giới trầm trồ, ngưỡng mộ. Nếu bạn ghé thăm Nam Định, hãy đến với thị trấn Cổ Lễ ở huyện Trực Ninh. Tôi sẽ dẫn bạn khám phá chùa Cổ Lễ.
Chùa Cổ Lễ, một di tích lịch sử nằm ở thị trấn Cổ Lễ, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Từ trung tâm thành phố, qua cầu đò, tiếp theo quốc lộ 21, xuống phía Nam khoảng 16km, bạn sẽ thấy chùa nằm ở phía Tây thị trấn. Chùa Cổ Lễ, còn được gọi là Thần Quang Tự, là công trình kiến trúc phật giáo được xây dựng từ thế kỷ XII dưới triều đại của vua Lý Thần Tôn. Đây là nơi thờ Phật và đức thánh tổ Nguyễn Minh Không. Trước kia, chùa được xây bằng gỗ theo kiến trúc cổ, nhưng qua thời gian, ngôi chùa này đã xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1902, đệ nhất tổ sư Phạm Quang Tuyên đã trùng tu và thiết kế lại chùa theo kiến trúc mới với quy mô mở rộng. Sau này, chùa được tu sửa nhiều lần với các vật liệu xây dựng như gạch, vôi, vữa, mật mía, giấy bản.
Nhìn từ xa, khuôn viên của chùa được bao phủ bởi những lớp cây cổ thụ rất rậm rạp. Bước vào cổng chùa, bạn sẽ thấy tòa “Cửu phẩm liên hoa” được xây dựng từ năm 1926-1927, tượng trưng cho chín tầng hoa sen đang nở. Tháp có tám mặt đặt trên lưng một con rùa lớn, với 98 bậc cầu thang xoắn ốc lên đỉnh. Người ta tin rằng, nếu chạm vào tượng Phật ở đỉnh tháp, sẽ gặp may mắn. Từ đỉnh tháp, bạn có thể nhìn thấy toàn bộ vùng quê. Chùa chính cao 29m, kiến trúc theo thế cửu trùng, gồm nhiều tòa khác nhau liên kết với nhau. Nét đặc biệt ở đây là kiểu uốn khung, cuốn vòm dáng hoa sen cách điệu được xây bằng vật liệu vôi, cát và mật. Trước cửa chùa có sáu cột lục lăng rỗng, ba mặt trước có ô hình chữ nhật, gắn kính màu mỗi khi thắp đèn sáng bên trong hiện lên màu xanh đỏ tím vàng như màu cớ nước Phật. Bên trong chùa, trên trần có họa tiết màu sắc rực rỡ như thảm kiểu Ba Tư, và có tượng Phật Thích Ca rất lớn.
Hàng năm, hội chùa được tổ chức từ ngày 10-16/9 âm lịch, với nhiều nghi lễ truyền thống như rước Phật, dâng dương, và các trò chơi dân gian như đua thuyền, cờ người,... Chùa được Bộ Văn Hóa xếp hạng là di tích lịch sử cấp quốc gia, là trụ sở Phật giáo huyện Trực Ninh và là trung tâm hội Phật giáo tỉnh Nam Định.
Chùa là điểm hẹn linh thiêng, nơi chúng ta giải thoát mọi lo âu cuộc sống, cầu nguyện cho hòa bình và may mắn cho gia đình và bản thân. Đồng thời, chùa cũng là biểu tượng của lòng biết ơn sâu sắc đối với các nhà sư, trụ trì đã hy sinh cho đất nước. Chùa Cổ Lễ - một trong những điểm tham quan nổi tiếng, di tích lịch sử văn hóa ở vùng sông Hồng, là niềm tự hào của người con Nam Định, nhưng cũng là trách nhiệm của mỗi người bảo vệ và tôn trọng di sản để nó tồn tại qua thời gian. Hãy bắt đầu từ những hành động nhỏ nhặt như không vứt rác lung tung, không phá cây trong khuôn viên chùa, không làm ô nhiễm hồ ao trong chùa,...
Chùa Cổ Lễ là nơi linh thiêng, lưu giữ nhiều giá trị lịch sử văn hóa, là một bảo tàng sống về triết lý sống hòa mình với cuộc sống. Kiến trúc bên ngoài đã thể hiện sự sáng tạo vượt bậc của nghệ thuật kiến trúc, mang lại vẻ đẹp mới lạ, tinh tế cho cảnh quan và kiến trúc bên trong chùa. Dù ở đâu, tôi vẫn tự hào về danh lam thắng cảnh này.
Thuyết minh về Sa Pa
Chưa đi chưa biết Sa Pa
Đi rồi mới thấy mây ba bốn tầng
Nắng viền thác Bạc một vầng
Tình yêu xối xả trắng ngần bay bay
Sa Pa một thành phố với khung cảnh mơ hồ, hấp dẫn với những phong cảnh tuyệt đẹp làm say lòng du khách. Nơi đây nổi tiếng với Phanxiphang hùng vĩ, là nơi đỉnh cao của Đông Dương, cùng với những cánh đồng lúa vàng óng ánh khi mùa lúa chín, không thể không kể đến khu du lịch Hàm Rồng lãng mạn và thơ mộng.
Núi Hàm Rồng nằm ở trung tâm Sa Pa, cao từ 1450m đến 1850m so với mực nước biển, với vẻ đẹp hùng vĩ và đa dạng. Khi mùa đông đến, nhiệt độ giảm sẽ tạo ra băng và tuyết, làm lạnh hơn và hấp dẫn du khách.
Khu du lịch Hàm Rồng là điểm đến nổi tiếng của Sa Pa, với thiên nhiên hoang sơ và vẻ đẹp đa dạng. Từ chân núi đến đỉnh núi, du khách được thưởng thức vườn lan lớn và vườn hoa đa dạng, cùng với con đường uốn cong và hang Tam Môn.
Tại đỉnh núi Hàm Rồng, du khách sẽ được chiêm ngưỡng khung cảnh kỳ vĩ của thiên nhiên. Ở độ cao 1800m, cảm giác của cái lạnh kết hợp với mây trắng bồng bềnh tạo nên một không gian lãng mạn.
Núi Hàm Rồng là điểm du lịch quan trọng của Lào Cai, đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và du lịch của địa phương này.
Sa Pa trở nên thơ mộng và hùng vĩ hơn với khu du lịch Hàm Rồng. Đây không chỉ là nguồn thu nhập kinh tế mà còn là nơi nghỉ dưỡng tuyệt vời cho du khách, giúp họ tận hưởng sự yên bình của thiên nhiên.
Không chỉ thế, Sa Pa và Hàm Rồng còn là nguồn cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ qua các thế hệ.
Chiều Sa Pa – Huyền Thanh
Hàm Rồng cổng đá trơ trụi
Vườn Lan khói bay cheo leo
Âm thanh heo hú vang đến tận chân trời
Thôn nghèo cô tịch lặng lẽ mẹ già..
Cùng với nhiều tác phẩm thơ độc đáo khác.
Mỗi khi nhớ đến Sa Pa, ta không thể quên những đứa trẻ H'mong dễ thương, cười vui vẻ dưới ánh nắng. Nhớ đến Hàm Rồng với vẻ đẹp hùng vĩ và sự mộng mơ. Sa Pa luôn ấm áp và tuyệt vời, không gì có thể làm mất đi vẻ đẹp tự nhiên và sự ấm áp của tình người.
Giới thiệu về Làng Văn hoá – Du lịch các Dân tộc Việt Nam
Giữa rất nhiều điểm du lịch hiện nay, không phải nơi nào cũng thu hút du khách. Nhưng, cách Hà Nội khoảng 40 phút lái xe, có một điểm đặc biệt thu hút các bạn trẻ, đó chính là Làng văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một phần của khu du lịch Đồng Mô, thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, được khánh thành vào ngày 19-9-2010 nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Từ trung tâm Hà Nội, đi đến đây mất khoảng 40 km. Đây là địa điểm có nhiều điểm tham quan hấp dẫn. Với diện tích khoảng 198,61 ha, khu các làng dân tộc chia làm 4 cụm làng tương ứng với từng vùng miền khác nhau. Làng Văn hóa các dân tộc Việt Nam được thiết kế với kiến trúc tái hiện các làng, bản của các dân tộc nhằm giới thiệu và bảo tồn giá trị lịch sử, văn hóa độc đáo.
Từ cổng vào, du khách có thể thuê xe điện để đến các làng của các dân tộc với mức vé phải chăng: 30000đ/người lớn và trẻ em dưới 6 tuổi được miễn phí vé vào. Hành trình thăm các làng tùy thuộc vào nhu cầu của du khách. Điểm cuối cùng là Tháp Chàm, chùa Khơ –me. Chùa Khơ me được xây dựng với màu vàng óng bao trùm. Chùa được thiết kế mái nhọn, trần rộng, có các cột trụ lớn, bên trong đặt một tượng Phật lớn. Tháp Chàm cao 21 m, nối cổng vào là tháp Đông, khu tháp này được thiết kế tương đối giống với tháp của người Chăm và được làm bằng đất sét nung. Tiếp theo du khách có thể tham quan khu nhà Tây Nguyên với các nhà sàn mô phỏng và khu nhà sàn phục vụ du khách nghỉ ăn trưa. Nhà rông có kiến trúc đặc trưng. Từ đây du khách có thể di chuyển tới làng văn hóa các dân tộc Thái với cánh đồng hoa tam giác mạch, khu nhà chính và thưởng thức nhiều hoạt động vui chơi văn nghệ.
Tại khu du lịch, du khách thường xuyên tham gia các lễ hội. Các lễ hội đặc biệt thu hút du khách tham gia. Qua đó, giá trị của làng được quảng bá. Lễ hội mùa xuân thường tổ chức vào đầu năm với nhiều trò chơi dân gian như đu quay, ném còn,..
Có thể khẳng định, Làng Văn hoá – Du lịch các Dân tộc Việt Nam là nơi tái hiện những giá trị văn hoá đặc sắc của 54 dân tộc Việt Nam. Đây là điểm tham quan du lịch lý tưởng cho du khách trong và ngoài nước, giúp họ hiểu thêm về đặc trưng dân tộc của Việt Nam và thỏa mãn các nhu cầu vui chơi, giải trí, thể thao, văn hóa,...
Qua những điểm tham quan độc đáo và hoạt động văn hóa, nghệ thuật phong phú, làng văn hóa các dân tộc đã giúp mỗi người khi đến đây thêm yêu quê hương và tinh thần đoàn kết với các dân tộc.
Giới thiệu về di tích lịch sử Cố đô Huế
Khi đặt chân đến miền Trung, chúng ta được thưởng thức những khúc Nam Ai, Nam Bình, những giai điệu dân ca đặc trưng của nơi này. Những bản hòa âm gợi lên ký ức về cố đô Huế, nơi đẹp của thiên nhiên và kiến trúc, cũng như của con người.
Huế, hay còn được gọi là Thừa Thiên Huế, nằm ở miền Trung Việt Nam. Nơi này giáp với Quảng Trị về phía bắc, Đà Nẵng về phía nam, và dựa vào núi Trường Sơn về phía tây, hướng ra biển Đông về phía đông. Khoảng cách từ thủ đô Hà Nội đến Huế là khoảng 66 km.
Tên gọi Huế, trong suốt lịch sử, đã trải qua nhiều biến đổi. Ban đầu, Huế được biết đến với tên Thuận Hóa. Vào đầu thế kỉ XVI, Thuận Hóa trở thành một vùng đất phát triển. Phú Xuân, một làng thuộc Thuận Hóa, đã được Nguyễn Hoàng chọn làm thủ phủ đầu tiên vào năm 1687. Sau một trăm năm, Phú Xuân trở thành kinh đô chính thức dưới thời vua Minh Mạng.
Huế là sự pha trộn hài hòa giữa núi, sông và biển. Tại đây, bạn có thể khám phá núi Bạch Mã, thổi gió biển; từ đèo Hải Vân ngắm biển xa xôi. Buổi sáng, lên núi Trường Sơn, chiều xuống biển Thuận An, đêm ngủ trên thuyền trên sông Hương. Đến Huế, bạn không nên bỏ qua kinh thành, nơi có ba vòng thành: Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành. Trong Tử Cấm thành có điện Cần Chánh, nơi vua làm việc, và điện Cần Thành, nơi vua nghỉ ngơi. Kinh thành Huế, một kiệt tác kiến trúc, được gọi là Thành phố thành lũy, thành phố ngôi sao.
Nếu bạn yêu thích lịch sử, bạn không thể bỏ qua Lăng Minh Mạng. Lăng này được xây dựng từ năm 1840, trước khi vua Minh Mạng qua đời một năm. Nơi này thu hút với cảnh quan thiên nhiên đẹp mắt, nằm bên sông Hương, cách thành phố Huế 12 km. Khi đến Huế, bạn nhất định phải thử trải nghiệm cảm giác đi thuyền trên sông Hương.
“Đi đâu cũng nhớ quê mình
Nhớ sông Hương gió mát, nhớ Ngự Bình trăng treo”
(Ca dao)
Tên gọi sông Hương xuất phát từ truyền thuyết, dòng sông này chảy qua rừng cây có mùi thơm dễ chịu. Sông Hương bắt đầu từ núi phía Đông Trường Sơn, chảy qua kinh thành Huế với dòng nước trong lành. Ở bên kia sông là cầu Tràng Tiền, ở phía Bắc là chợ Đông Ba - trung tâm thương mại của thành phố. Sông Hương cũng là nơi diễn ra các lễ hội như thả đèn hoa đăng, đua thuyền và ca Huế trên thuyền Rồng.
Huế không thể thiếu sông Hương và núi Ngự Bình. Núi Ngự Bình, hay còn gọi là Băng Sơn, cách kinh thành Huế khoảng 3km về phía Nam. Từ xa, Ngự Bình có hình dáng thẳng đứng, đỉnh phẳng, cao khoảng 104m; là biểu tượng đặc trưng của Huế. Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình tạo nên vẻ đẹp sơn thủy hữu tình của Huế.
Huế không chỉ nổi tiếng với thiên nhiên thơ mộng mà còn là thành phố của những khu vườn, vườn hoa và cây chè xanh mướt. Kim Long là điển hình, nơi hội tụ của nhiều loài hoa thơm từ Bắc vào Nam. Hàn Mặc Tử đã có lý do để viết những câu thơ tuyệt vời như thế với cảnh vật như vậy.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Trên đường làng ở cố đô, bạn sẽ thấy những chiếc nón Huế và những chiếc áo dài bay trong gió. Những chiếc nón Huế không chỉ là biểu tượng độc đáo trang trí bài thơ và tranh vẽ mà còn mang trong mình nhiều cảm xúc sâu lắng, là phần không thể thiếu của cuộc sống và văn hóa Huế.
Huế không chỉ nổi tiếng với ẩm thực phong phú mà còn là biểu tượng của sự anh hùng, của lịch sử và văn hiến. Đây là nơi mà triều đại cuối cùng của Việt Nam thịnh trị, nơi mà nhân dân đã đấu tranh vì độc lập dân tộc. Huế, mảnh đất đẹp đẽ và anh hùng, sẽ mãi sống trong lòng mỗi người.
Có thể so sánh Huế như một người phụ nữ xinh đẹp, tinh tế và anh hùng. Những giá trị và tên tuổi của nó sẽ tồn tại mãi mãi, làm cho mảnh đất này trở nên bất tử trong lòng mọi người.
Mô tả về đền thờ Chu Văn An
Điều rất quen thuộc, mỗi khi về quê thăm gia đình ở Chí Linh - Hải Dương, tôi thường đi cùng mẹ đến thăm một chơi xổ sốn chùa trong khu di tích ở đây, như Côn Sơn - Kiếp Bạc, đền Nguyễn Trãi, đền Sinh và đền thờ Chu Văn An… Mỗi khi đến Đền thờ Chu Văn An, tôi luôn có những suy tư sâu sắc về tinh thần làm thầy, về tri thức mà Nhà giáo Chu Văn An đã truyền dạy cho hậu thế từ hơn 600 năm trước.
Từ Quốc lộ 18, vượt qua con đường đất khoảng 3km, với dốc núi quanh co giữa những vườn nhãn, na, bưởi, tiếp đến là những rặng thông xanh mướt, chúng tôi đến núi Phượng Hoàng, thuộc xã Văn An (trước đây là xã Kiệt Đặc), huyện Chí Linh, Hải Dương, nơi có khu di tích đền thờ Chu Văn An. Đền này đã được Nhà nước công nhận là Khu di tích lịch sử quốc gia từ năm 1998 và đã được trùng tu, tôn tạo, khánh thành vào đầu năm 2008.
Bước vào khu di tích, ngay từ cổng lên đền chính, bề ngoài nổi bật chữ “Học” được viết bằng nét bút thư pháp trông rất uy nghi, như một tấm thảm nhung trải rộng trên các bậc đá để chúng tôi bước lên Đền. Kế tiếp là dòng chữ “Vạn thế sư biểu” bằng chữ Hán in trên nền đá, thể hiện lòng tôn kính sâu sắc của nhiều thế hệ người Việt dành cho nhà giáo Chu Văn An. Kiến trúc của ngôi đền chính được thiết kế theo kiểu “chồng diêm” tám mái, thể hiện sự tôn vinh và đẳng cấp của danh nhân theo truyền thống của người Việt. Nhà gỗ lim lợp ngói liệt, nhà bia cổ, bậc thềm đá, đồ thờ sơn son thiếp vàng... Hai bên Đền là nhà giải vũ, sân thượng, sân trung, sân hạ, đôi rồng đá, hai nhà bia… Nguyên khởi của ngôi đền chính là “Điện lưu quang”, nơi 600 năm trước thầy Chu Văn An sau khi từ bỏ tất cả để trở về dạy học, viết sách, làm thơ, nghiên cứu y dược, sống một cuộc sống của một ‘‘tiều ẩn” (tự xưng mình như một tiều phu ẩn dật chốn rừng sâu), yên bình, tinh khôi, hòa mình vào thiên nhiên. Nhìn chung, ngôi đền không quá hoành tráng, phô trương, mà lại được thiết kế, xây dựng và trang trí độc đáo, đậm nét văn hóa truyền thống vừa mang đến sự nghiêm túc, vừa tạo ra sự ấm cúng, trang trọng.
Người trông coi đền, với khuôn mặt hiền hậu, đang chăm chỉ quét dọn lá rơi trên sân rộng, thấy chúng tôi bước lên Đền liền chào đón bằng cử chỉ đặt tay lên ngực. Ông cho biết, vào mỗi dịp lễ tết hay tuần rằm, mùng một, đặc biệt là vào mùa thi cử, nơi đây luôn thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách đến thăm viếng, dâng hương. Trong những dịp này, tại phòng thư bên trái Đền thường có các cụ đồ Nho trong trang phục cổ, ngồi viết ra những con chữ giàu ý nghĩa bằng mực đỏ, màu mực mà truyền thuyết cho biết nhà giáo Chu Văn An thường dùng để viết, biểu hiện tấm lòng trung trinh và lòng yêu nước của mình. Trong những dịp này, các bậc phụ huynh, các em học sinh, hoặc các nhà văn, thi sĩ mang theo nỗi niềm nặng trĩu của tâm hồn, thường đến Đền để xin chữ, cầu mong sự học hành và viết lách luôn thuận buồm xuôi gió, thành công và đạt được những kết quả tốt đẹp.
Tôi cùng mẹ bước vào chính điện với sự kính trọng để thực hiện nghi thức lễ. Vì là ngày thường nên nơi đây khá vắng vẻ, không có nhiều du khách đến thăm viếng, dâng hương. Khói hương nhẹ nhàng tràn ngập không gian, tạo nên bầu không khí trầm lắng. Sư thầy trong bộ áo nâu trang nghiêm đã gõ một cử chỉ chuông dài, khiến không gian vốn yên bình nơi đây trở nên càng tĩnh lặng hơn, âm nhạc của chuông vang vọng khắp nơi. Cả ngôi đền nằm giữa khung cảnh bao quanh của những cây thông xanh mướt dưới ánh nắng vàng của buổi chiều, tạo nên một vẻ đẹp lung linh trong huyền thoại về Nhà giáo tài ba, đức vẹn Chu Văn An.
Bài thuyết trình về Chùa Hương
Khi nói đến văn hóa tâm linh của người Việt, không thể không nhắc đến những ngôi đền chùa cổ kính, linh thiêng mang đậm nét đẹp riêng, trầm lắng, là nơi thể hiện sự thành kính và biết ơn đối với tổ tiên, đối với tín ngưỡng tôn giáo. Trong số những ngôi đền chùa cổ nổi tiếng của dân tộc, không thể không kể đến Chùa Hương - một trong những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa và tín ngưỡng của Việt Nam.
Chùa Hương, hay còn được biết đến với tên gọi Hương Sơn, là một quần thể văn hóa - tôn giáo của Việt Nam, bao gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, một chơi xổ sốn thờ thần, các đình làng, điểm tâm linh nông nghiệp, nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội. Chùa được xây dựng vào cuối thế kỷ 17, trong thời kỳ Đàng Trong - Đàng Ngoại, sau đó bị hủy hoại trong cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1947, nhưng đã được phục dựng lại vào năm 1988 dưới sự chỉ dạy của cố Hòa thượng Thích Thanh Chân, do Thượng Tọa Thích Viên Thành chủ trì.
Nơi đây liên kết với tín ngưỡng dân gian thờ Bà Chúa Ba, theo truyền thuyết kể lại rằng con gái thứ ba của vua Diệu Trang Vương của Hương Lâm được biết đến với tên gọi Diệu Thiện, được coi là vị chúa Ba hiện thân của Bồ Tát Quan Thế Âm, sau nhiều năm tu hành, bà đã thành Phật để cứu độ chúng sinh.
Dưới bàn tay tài hoa của các cụ, kết hợp với vẻ đẹp tự nhiên mà thiên nhiên ban tặng, chùa Hương được điểm xuyết bởi những đặc điểm độc đáo, đưa ta từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Khuôn viên của chùa Hương có nhiều kiến trúc phong phú phân bố trong thung lũng của suối Yến.
Khu vực chính là chùa Ngoại, hay còn được gọi là chùa Trò, theo tên chữ là Thiên Trù. Chùa nằm gần bến Trò nơi hành khách đi hương từ bến Đục lên chùa, sau đó đi bộ trở lại. Ba cổng của chùa được xây trên ba sân rộng lát gạch. Sân thứ ba là nơi tháp chuông được xây với ba tầng mái.
Đây là một công trình cổ, có hình dáng độc đáo với hai đầu tam giác trên tầng cao nhất. Tháp chuông này ban đầu thuộc về chùa làng Cao Mật, tỉnh Hà Đông, vào năm 1980 đã được chuyển về chùa Hương để làm tháp chuông. Chùa Chính, hay còn gọi là chùa Trong, không phải là một công trình nhân tạo mà là một hang động tự nhiên.
Ở lối vào hang động có một cánh cổng lớn, bề mặt cánh cổng ghi chữ “Hương Tích động môn”. Phía sau cánh cổng là một con dốc dài, lối đi được xây dựng từ 120 bậc đá. Trên tường động có năm chữ Hán “Nam thiên đệ nhất động” được viết bởi Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm. Bên cạnh đó, trong động còn có một số bia và thi văn khắc trên tường đá.
Lễ hội chùa Hương diễn ra vào ngày mồng sáu tháng giêng, thường kéo dài đến hạ tuần tháng ba âm lịch. Vào dịp lễ này, hàng triệu phật tử cùng du khách từ khắp nơi lại tấp nập về thăm chùa Hương.
Đỉnh cao của lễ hội diễn ra từ rằm tháng giêng đến ngày 18 tháng hai âm lịch. Ban đầu, ngày này được coi là ngày khai sơn của địa phương, nhưng hiện nay nó được hiểu là ngày mở cửa chùa để đón tiếp du khách. Lễ hội tại chùa Hương thường diễn ra một cách đơn giản trong phần lễ cúng.
Một ngày trước khi bắt đầu lễ hội, tất cả các đền chùa, đình, miếu đều được thắp hương mạnh mẽ. Tại chùa Trong, có một buổi lễ dâng hương, bao gồm hương, hoa, đèn, nến, hoa quả và thức ăn chay. Trong buổi lễ, hai tăng ni mặc áo cà sa mang đồ lễ chay và thực hiện nghi lễ cúng trên bàn thờ.
Từ ngày bắt đầu đến ngày kết thúc của lễ hội, chỉ đôi khi mới có các sư từ các chùa trên đến tụng kinh trong khoảng nửa giờ tại các chùa, đình, miếu. Hương khói không bao giờ ngừng. Phần lễ thường có xu hướng tập trung vào 'thiền'. Tuy nhiên, ở các chùa ngoại lại thờ các vị sơn thần cùng với các vị thần khác trong đạo giáo.
Đền Cửa Vòng là nơi thờ bà chúa Thượng Ngàn, người cai quản vùng rừng núi xung quanh với cái tên “tì nữ tuý Hồng” của sơn thần tối cao. Các chùa như Bắc Đài, Tuyết Sơn, chùa Cả và đình Quân thờ ngũ hổ và tín ngưỡng cá thần. Lễ hội thường tổng hợp hệ thống tín ngưỡng, gần như là tổng thể của những tín ngưỡng tôn giáo của Việt Nam.
Trong lễ hội có các hoạt động rước lễ và rước văn. Dân làng tổ chức một cuộc diễu hành tới nhà ông soạn văn tế, rước bản văn ra đền để chủ tế trịnh trọng đọc, điều khiển các bô lão của làng thực hiện nghi lễ cúng cho các vị thần của làng. Lễ hội chùa Hương còn là nơi tụ họp các hoạt động văn hóa dân tộc đặc sắc như bơi thuyền, leo núi và các tiết mục văn nghệ truyền thống như hát chèo và hát văn.
Ngoài sự độc đáo của kiến trúc và phong cảnh, chùa Hương còn là nơi lưu giữ những giá trị về văn hóa tâm linh, lịch sử dân tộc và là biểu tượng của sự phát triển tinh thần từ xưa đến nay, cần được bảo tồn và truyền đạt.
Chùa Hương không chỉ tự hào của người Hà Nội và người Việt Nam mà còn là nơi mang lại cảm giác bình yên, giúp ta tạm quên đi áp lực cuộc sống và tận hưởng những khoảnh khắc thanh thản trong lòng.
Thuyết minh về vẻ đẹp của Vịnh Hạ Long
Khi nói đến những danh lam thắng cảnh của Việt Nam, không thể không nhắc đến vịnh Hạ Long - nơi được mệnh danh là một trong những kỳ quan thiên nhiên đẹp nhất thế giới. Điều này không chỉ là sự đẹp hiện tại mà còn là một tài sản vô giá từ thời xa xưa.
Truyền thuyết về Vịnh Hạ Long kể rằng, Ngọc Hoàng đã sai Rồng Mẹ và đàn Rồng Con xuống trần gian để bảo vệ người dân khỏi quân thù. Khi thuyền giặc xâm nhập, đàn Rồng đã nhanh chóng đốt cháy chúng bằng lửa và tạo nên một bức tường đá vững chãi từ Châu Ngọc, ngăn chặn bước tiến của kẻ thù.
Sau khi giặc tan, cảnh đất trời yên bình, thiên nhiên rộn ràng, con người nơi đây đoàn kết, chăm chỉ. Rồng Mẹ và Rồng Con không rời xa mà ở lại bảo vệ dân Đại Việt. Hạ Long là nơi Rồng Mẹ đáp xuống; Bái Tử Long và Bạch Long Vĩ là nơi Rồng Con và đàn rồng nằm trấn trạch.
Có một truyền thuyết kể rằng, khi đất nước đối mặt với giặc ngoại xâm, một con rồng đã xuống sông, hạ cánh ở Đông Bắc và tạo thành bức tường ngăn chặn thù địch. Nơi rồng đáp xuống được gọi là Hạ Long.
Hạ Long có 1969 hòn đảo, trong đó 989 có tên. Đảo đá vôi và đảo phiến thạch tập trung ở Bái Tử Long và Vịnh Hạ Long. Có nhiều hang động nổi tiếng. Di sản thiên nhiên thế giới có diện tích 434 km², được UNESCO công nhận từ năm 1962.
Khi đến Hạ Long, người ta không thể không ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của núi non, nước biển và hang động. Con người nơi đây chào đón khách du lịch với lòng nhiệt tình và sự hiếu khách, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng du khách.
Người dân Hạ Long thật lòng mến khách và tận tình hướng dẫn du khách khám phá vẻ đẹp của địa phương. Họ làm cho du khách có những trải nghiệm không thể nào quên về văn hóa và tình cảm nồng ấm của miền non nước này.
Vịnh Hạ Long thực sự là một kỳ quan của thế giới. Ai đã từng đặt chân đến đây đều ấn tượng bởi vẻ đẹp của nơi này. Người chưa đến hãy mau đến và trải nghiệm những phép mầu mẹ thiên nhiên ban tặng.
Thuyết minh về Văn Miếu Quốc Tử Giám
Văn Miếu Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của Việt Nam, là nơi hội tụ của những người tài giỏi, đã đóng góp lớn vào sự phát triển của đất nước. Vẫn là điểm đến phổ biến của du khách khi đến Hà Nội.
Văn Miếu Quốc Tử Giám đã trải qua biến động lịch sử nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống của con người Hà Nội. Nơi đây đã đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước từ thời Lí.
Văn Miếu bao gồm Văn Miếu thờ Khổng Tử và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, vẫn giữ được vẻ đẹp cổ kính qua hàng trăm năm.
Ban đầu, Văn Miếu chỉ dành cho các hoàng tử, sau này mở cửa cho tài năng trên khắp đất nước. Diện tích Văn Miếu là 54.331 m2, gồm Hồ Văn, vườn Giám và nội tự được bao quanh bởi tường gạch. Kiến trúc của Văn Miếu đã chứng kiến thăng trầm của thời gian và sự biến đổi của đất nước.
Khi bước vào Văn Miếu, du khách sẽ thấy cổng chính với chữ Văn Miếu Môn và hai con rồng đá. Khuê Văn Các là nơi tổ chức bình các bài thơ và văn hay. Từ gác Khuê Văn đến Đại Thành Môn, có hồ Thiên Quang Tĩnh và 82 bia tiến sĩ nổi tiếng như Ngô Thì Nhậm, Lê Quý Đôn...
Cuối sân là nhà Đại bái và hậu cung, nơi lưu giữ những hiện vật quý hiếm như chuông Bích Ung do Nguyễn Nghiêm đúc vào năm 1768. Trường Quốc Tử Giám là nơi đào tạo người tài như Chu Văn An, Bùi Quốc Khải...
Văn Miếu Quốc Tử Giám được xây dựng chủ yếu từ gỗ lim, gạch đất nung, ngói mũi hàng, mang nét nghệ thuật của triều Lê và Nguyễn.
Đến ngày nay, Văn Miếu Quốc Tử Giám vẫn là điểm đến của nhiều du khách, nơi họ tìm hiểu lịch sử và tôn vinh tổ tiên. Nơi đây còn là biểu tượng của Hà Nội, của thủ đô nghìn năm văn hiến.
Thuyết minh về phố cổ Hội An
Khi cơn mưa lạnh đầu mùa rơi, phố cổ Hội An nhỏ nhắn dường như co lại. Tiếng rao đêm vang lên: “Ai bánh chưng, bánh dày không?”.
Hội An, một khu phố cổ đơn sơ, mộc mạc, cách trung tâm Đà Nẵng ba mươi ki-lô-mét, được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới từ năm 1999.
Bước vào phố cổ, du khách sẽ ngạc nhiên trước một thế giới biệt lập. Không tiếng gầm rú của xe cộ hay tiếng ồn từ nhà máy. Tất cả đã lùi xa, không gian và thời gian dường như lắng đọng trên mái ngói rêu phong cũ kĩ, những căn nhà gỗ từ xa xưa.
Thời điểm phố cổ Hội An đẹp nhất có lẽ là vào ban đêm, lãng mạn và sâu lắng hơn. Sáng kiến khôi phục đèn lồng vào mùa thu năm 1998 đã đem lại hiệu quả bất ngờ, khiến mọi người quay lại đời sống vào ba trăm năm trước trong ánh sáng mập mờ huyền ảo.
Mặc dù ánh sáng giảm đi, nhưng lòng nhiệt huyết của mỗi người vẫn bốc cháy khi đi qua phố cổ. Nhìn thấy những mái nhà cũ kĩ, những phụ nữ trong tà áo dài trắng làm việc dưới ánh đèn lồng, hay hai cụ già so tài cờ tướng, uống trà dưới ánh sáng lung linh, huyền ảo. Dường như con người đang quay ngược lại thời gian để sống với những gì đã từng tồn tại.
Trong những đêm lễ hội, người ta thường tổ chức các trò chơi dân gian như đập niêu, kéo co. Du khách và người dân địa phương tham gia nhiệt tình, tạo nên không khí sôi động và tràn đầy sức sống cho thành phố. Những câu hát vang lên trên những chiếc thuyền trong đêm khuya, làm rung động lòng người.
Hội An đã trở thành một huyền thoại, một dấu ấn không thể phai nhạt của lịch sử. Nơi đây sẽ mãi sống trong tâm trí chúng ta, để chúng ta sống với những gì đã từng có, với vẻ đẹp giản dị của quá khứ.
Thuyết minh về Bến Nhà Rồng
“Thành phố Hồ Chí Minh quê ta đã viết nên thiên anh hùng ca, thiên anh hùng ca ngàn năm sáng chói lưu danh đến muôn đời…”. Lời ca ngân, lên trong mỗi người niềm tự hào khi là công dân của thành phố anh hùng mang trong mình dấu ấn lịch sử. Tại Bến Nhà Rồng, Bác Hồ đã ra đi tìm đường cứu nước, là nơi duy nhất được vinh dự mang tên của Người. Bến Nhà Rồng ngày nay là bảo tàng Hồ Chí Minh, địa chỉ thân thương của nhân dân cả nước.
Sau gần một thế kỷ và nửa (150 năm), Bến Nhà Rồng vẫn tồn tại vững chãi tại số 1 đường Nguyễn Tất Thành, quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh (trước đây là đường Trịnh Minh Thế). Nơi này nằm ở cửa ngõ sầm uất nhất của cảng Sài Gòn, là trái tim của thành phố, với bến Bạch Đằng trước mặt. Khi đêm buông xuống, cả khu vực lung linh và huyền ảo, tô điểm thêm vẻ đẹp của thành phố, xứng đáng là “hòn ngọc của Viễn Đông”.
Hiện nay, Bến Nhà Rồng đã trở thành Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh của Bảo tàng Hồ Chí Minh, là một trong các địa điểm quan trọng trong hệ thống các bảo tàng và di tích lưu niệm về Chủ tịch Hồ Chí Minh trên toàn quốc. Trước đây, trước ngày 30/4/1975, đây là trụ sở của Tổng Công ty Vận tải Hoàng đế (Messageries Impériales) - một trong những công trình đầu tiên do thực dân Pháp xây dựng sau khi chiếm được Sài Gòn.
Theo thời gian, Bến Nhà Rồng đã trở thành địa chỉ lưu giữ những sự kiện quan trọng, gắn liền với vận mệnh của dân tộc. Vào ngày 5/6/1911, Nguyễn Tất Thành đã bước lên con tàu Latouche Treville trong cuộc hành trình “30 năm chân trời chân trời”.
Với lịch sử thiêng liêng của mình, Bến Nhà Rồng là nơi lưu giữ nhiều tư liệu, hiện vật quý giá, giúp mọi người hiểu rõ hơn về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của vị lãnh tụ tài ba, người cha già kính yêu của dân tộc - Hồ Chí Minh. Bảo tàng đã trưng bày khoảng 170 tư liệu, hình ảnh, hiện vật, gợi lại nhiều cảm xúc cho người tham quan.
Bảo tàng là một trong những địa điểm quan trọng để nhân dân đến nghiên cứu, giao lưu, tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Bác. Mỗi năm, bảo tàng thu hút hàng triệu du khách trong và ngoài nước. Bến Nhà Rồng, bảo tàng Hồ Chí Minh đã được chọn làm biểu tượng của thành phố nhân dịp kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh.
'Xin cùng
Chúng ta bước đi vững vàng
Qua dải Trường Sơn muôn ngọn núi.'
Giới thiệu về Đà Lạt
Đà Lạt - với tôi, đây là một thành phố tuyệt vời, là nơi đáng sống và tôi đã yêu thích Đà Lạt từ lâu. Thành phố mơ mộng này mang đến vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế mà khó tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác trên đất nước. Đà Lạt là chủ đề mà người ta không thể ngừng nói, không thể ngừng chia sẻ, và tôi sẽ kể về Đà Lạt với sự hứng khởi nhất.
Từ Bắc vào Nam, dọc theo dải đất hình chữ S này, có nhiều danh lam thắng cảnh, nhưng với tôi, Đà Lạt là một trong những nơi được thiên nhiên ưu ái nhất. Đà Lạt nằm trên cao nguyên Lâm Viên của Tây Nguyên, với độ cao khoảng 1500m so với mực nước biển.
Đà Lạt có khí hậu đặc biệt, với không khí trong lành, mát mẻ, và thời tiết sương mù phổ biến. Thành phố này cũng nổi tiếng với các loại hoa và trái cây, thu hút nhiều du khách từ trong và ngoài nước.
Khi nhắc đến Đà Lạt, không thể bỏ qua vẻ đẹp của con người nơi đây. Con người Đà Lạt thanh lịch và sâu sắc, sống chậm rãi và an yên, với lòng nồng hậu và sự mến khách. Đây là điểm đặc biệt mà du khách không thể không nhớ. Đà Lạt từ lâu đã trở thành điểm du lịch hàng đầu của Việt Nam, thu hút hàng triệu lượt du khách mỗi năm.
Du lịch Đà Lạt ngày càng phát triển mạnh mẽ, với nhiều nhà hàng và khách sạn cao cấp, cùng với các điểm tham quan du lịch. Đà Lạt được ví như 'Paris thu nhỏ' với phong cách Châu Âu độc đáo. Các điểm du lịch nổi tiếng như Hồ Xuân Hương, Dinh Bảo Đại, thung lũng tình yêu và núi Lang Biang không thể bỏ qua.
Với lịch sử hơn một thế kỷ, Đà Lạt vẫn giữ được vẻ đẹp thanh lịch và duyên dáng. Thành phố này như một bông hoa đẹp giữa rừng hoa của Việt Nam, ngày càng được nhiều người mến mộ.
Giới thiệu về chùa Một Cột
Chùa Một Cột là một kiến trúc độc đáo, đại diện cho văn hóa và lịch sử dân tộc. Đây không chỉ là một ngôi chùa có kiến trúc độc nhất ở Việt Nam và Châu Á, mà còn là một điểm đến tâm linh quan trọng của thủ đô Hà Nội.
Ngoài tên gọi Chùa Một Cột, người ta còn gọi nó là Diên Hựu Tự hoặc Liên Hoa Đài. Điểm nổi bật của ngôi chùa này chính là kiến trúc độc đáo, được xây trên một cột đá cao khoảng 4m. Chùa được xây dựng từ thời Lý trên đất thôn Thanh Bảo, cạnh Quảng trường Ba Đình - Lăng Chủ Tịch.
Chùa Một Cột được lấy cảm hứng từ giấc mơ của vua Lý Thái Tông về Phật Bà Quan Âm. Vua quyết định xây chùa sau khi được nhà sư Thiên Tuế khuyên. Ngày mùa đông năm 1049, vua cho xây dựng chùa này với đài hoa sen và tượng Bồ Tát Quan Thế Âm.
Vua Lý Anh Tông thường lui tới chùa để cầu phúc và làm việc thiện. Kết quả, hoàng hậu mang thai và sinh ra một hoàng tử. Vua coi đó là ân huệ nên xây thêm một chùa khác bên cạnh để tạ ơn. Cụm di tích này được đặt tên Diên Hựu Tự với ý nghĩa 'phước lành dài lâu'.
Năm 1105, vua Lý Nhân Tông quyết định trùng tu chùa và xây thêm hai tháp lợp sứ trắng. Ba năm sau, Nguyên Phi Ỷ Lan ra lệnh đúc 'Giác thế chung' để thức tỉnh lòng thế nhân.
Chùa Một Cột là một di tích lịch sử và nghệ thuật được đánh giá cao không chỉ trong nước mà còn trên thế giới. Năm 1962, chùa được công nhận là Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật Quốc gia và năm 2012, nó lập kỷ lục là 'Ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Châu Á'.
Chùa Sen Độc Nhất được biết đến với kiến trúc độc đáo, mang hình ảnh của một đóa sen to lớn nổi bật trên mặt nước, tượng trưng cho sự thuần khiết và cao quý. Không gian của chùa nằm trên một trụ đá cao 4 mét, hình thành từ hai khối đá hòa quyện với nhau, tạo ra hình dáng đặc biệt dưới lòng hồ Linh Chiểu. Ao nước quanh chùa được bao quanh bởi lan can làm từ gạch men xanh sành tráng, với các họa tiết khối lạ mắt. Mái ngói của chùa theo kiểu cổ điển, với đỉnh mái được trang trí hình rồng, tượng trưng cho sức mạnh và quyền uy.
Chùa Sen Độc Nhất đã trở thành biểu tượng văn hóa quốc gia, là điểm tham quan nổi tiếng của thủ đô Hà Nội. Không chỉ được biết đến trong nước, chùa còn thu hút rất nhiều du khách quốc tế tìm đến để chiêm ngưỡng vẻ đẹp độc đáo và sâu sắc của văn hóa dân tộc.
Giới thiệu về Dinh Độc Lập
Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế của Việt Nam, luôn sôi động và năng động. Trong lòng thành phố, vẫn còn tồn tại những công trình kiến trúc lịch sử, là minh chứng cho những thời kỳ anh hùng, để chúng ta nhớ về và biết ơn cuộc sống hiện tại. Một trong những công trình kiến trúc quan trọng đó là Dinh Độc Lập, nằm tại số 106 đường Nguyễn Du, quận Một.
Dinh Độc Lập đã trải qua nhiều thời kỳ lịch sử và mang nhiều cái tên khác nhau. Khi Pháp xâm chiếm Sài Gòn, họ xây dựng Dinh Norodom, hoàn thành năm 1868. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Ngô Đình Diệm đổi tên Dinh thành Dinh Độc Lập và xây dựng lại một Dinh mới mạnh mẽ hơn. Công trình hoàn thành vào mùa thu năm 1966, dưới sự chỉ đạo của kỹ sư Phan Văn Điển.
Dinh Độc Lập được bao quanh bởi những hàng cây xanh tươi mát. Phía trước tòa nhà là một sân rộng được thiết kế độc đáo với cỏ xanh mướt tạo thành hình tròn, bao quanh là con đường vòng có thể đi từ cả hai bên khi đi qua cánh cổng của Dinh. Với việc sử dụng chủ yếu các vật liệu xây dựng trong nước, Dinh là một công trình lớn được xây dựng, điêu khắc, trang trí và thiết kế bố cục bởi người Việt, tạo ra những chi tiết tinh tế trong từng phòng. Dinh Độc Lập gồm ba tầng chính. Bước vào Dinh, bạn sẽ không chỉ ấn tượng bởi kiến trúc hiện đại mà còn kinh ngạc trước những chi tiết tinh xảo trong từng phòng. Tầng một bao gồm các phòng họp nội bộ, phòng đại yến và phòng khánh tiết. Phòng lớn nhất với các hàng ghế dài đặt đối diện nhau là phòng khánh tiết, được trang trí bởi hoa văn sang trọng kết hợp giữa phong cách Tây u và Đông u, dùng để tiếp đón khách. Phòng họp có các ghế xếp xung quanh bàn hình bầu dục tạo ra một không gian trang nghiêm, trên bàn có các micro đứng. Phòng đại yến và các phòng khác cũng được trang trí kỹ lưỡng. Điều đặc biệt là dù ở phòng nào cũng có sự hiện diện của các loại cây lá, giúp không khí trở nên mát mẻ hơn và tạo sức sống cho không gian. Tầng hai là nơi làm việc của các lãnh đạo cấp cao của quốc gia. Các phòng như phòng trình quốc thư, nơi các đại sứ tại Sài Gòn trình bày thư ủy nhiệm cho Tổng thống trước năm 1975. Phòng được thiết kế theo phong cách Nhật với kỹ thuật sơn mài độc đáo... Ghế của Tổng thống có tay tựa hình rồng và được đặt cao hơn các ghế khác. Phòng còn lại được trang trí bởi hai tủ sơn mài 'mai lan', 'cúc trúc' thực hiện năm 1966. Những căn phòng của tầng hai là nơi làm việc của Tổng thống và phó Tổng thống lúc bấy giờ. Tầng ba được thiết kế rộng rãi hơn để phục vụ cho mục đích giải trí, thư giãn và học hỏi. Bên ngoài đối diện với phần mặt chính của tòa nhà là các bàn bi-a cùng chiếc đàn piano lớn. Khu vực uống nước và trò chuyện gần phòng chiếu phim và phòng tiếp khách của phu nhân Tổng thống. Vào những năm 60 của thế kỷ XX, phòng chiếu phim đã đánh dấu bước tiến mới của công nghệ, cùng với đó là chiếc rèm kéo màu đỏ tự động. Không gian của phòng chiếu phim cũng là sân khấu biểu diễn nghệ thuật. Những bức tranh trừu tượng cũng được treo tại phòng tiếp khách của phu nhân Tổng thống, điểm nhấn khác biệt là hoa văn mềm mại và nữ tính hơn so với các phòng khác. Bên cạnh đó là thư viện với các cuốn sách đa dạng, từ sách giáo dục đến sách chính trị và thống kê, được bảo quản trong các tủ gỗ có mặt kính. Khu sân thượng là nơi tận hưởng không khí tự nhiên với một chiếc trực thăng vẫn nằm tại một góc sân thượng, dưới ánh sáng của Sài Gòn, tạo ra một cảm giác khác biệt.
Và còn nhiều phòng khác tại Dinh Độc Lập đang chờ đợi được tham quan và chiêm ngưỡng. Các phòng hầm bí mật với máy lạnh và quạt thông gió, được trang trí bởi các đèn chùm lấp lánh trên sàn đá hoa cương bóng loáng. Thiết kế đặc biệt của mỗi góc của Dinh Độc Lập vẫn giữ được giá trị của nó cho đến ngày nay.
Dinh Độc Lập không chỉ là một công trình kiến trúc độc đáo mà còn là một minh chứng, là bằng chứng của lịch sử. Dinh đã cùng đất nước và nhân dân vượt qua nhiều biến cố trong lịch sử Việt Nam. Sự kiên cường của Dinh đã để lại cho con cháu những bài học quý báu về tình yêu đất nước và sự kiên trì trong cuộc sống.
Giới thiệu về Hồ Tây
Hồ Tây là một hồ nước tự nhiên nằm ở phía Tây Bắc của trung tâm Hà Nội, với diện tích khoảng 500ha, có một con đường vòng quanh hồ dài gần 20km. Các nhà địa lý lịch sử đã chứng minh, Hồ Tây là một hồ ngoại sinh, có hình dạng hồ chảo, là một phần của sông Hồng cổ đại trong quá trình dừng lại sau khi dòng sông đã thay đổi. Hồ Tây trước đây được biết đến với các tên gọi khác nhau như Đầm Xác Cáo, Hồ Kim Ngưu, Lãng Bạc, Dâm Đàm, Đoài Hồ. Mỗi cái tên đều kèm theo một truyền thuyết về nguồn gốc của hồ Tây huyền thoại.
Trong sách Tây Hồ được ghi chép rằng, Hồ Tây đã tồn tại từ thời Hùng Vương. Ban đầu, đây là một bến nằm sát bên sông Hồng, thuộc địa phận của động Lâm Ấp, do đó được gọi là bến Lâm Ấp thuộc thôn Long Đỗ. Trong thời Hai Bà Trưng, bến này được mở rộng và nối liền với sông Hồng, và xung quanh hồ là rừng cây gồm nhiều loại thực vật chính như tre ngà, bàng, lim, lau sậy, gỗ tầm cùng một số loài thú quý hiếm.
Phía Tây của hồ Tây ngày nay vẫn còn nhiều dấu vết của các làng cổ. Mỗi ngôi làng ở đây đều có một phần của lịch sử huyền thoại. Làng Nghi Tàm, quê hương của nhà thơ 'Bà huyện Thanh Quan'. Làng Xuân Tảo với đền Sóc thờ Thánh Gióng. Làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ bà tổ ngành dệt lụa. Làng Thụy Khuê có chùa Bà Ðanh. Làng Nhật Tân với vườn đào nổi tiếng. Điểm đến mà nhiều du khách muốn đến thăm là chùa Trấn Quốc. Chùa Trấn Quốc nằm trên một bán đảo nhỏ giữa sóng nước mênh mông, ngay bên cạnh đường Thanh Niên, con đường đẹp chia cắt giữa hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, được xây dựng từ thế kỷ thứ sáu thời Lý Nam Đế.
Ở thủ đô Hà Nội, hồ Tây là khu vực có hệ thống di sản, di tích đa dạng. Chỉ riêng khu vực quanh hồ Tây hiện còn có hơn 20 ngôi đình, đền, chùa được xếp hạng với nhiều di tích nổi tiếng. Mỗi khi mùa xuân về, những di tích này thu hút hàng vạn du khách trong và ngoài nước đến chiêm ngưỡng, tham quan lễ chùa. Với vị trí độc đáo, hồ Tây là nơi gắn liền với nhiều truyền thuyết, các công trình nghệ thuật, kiến trúc, đồng thời là di sản lịch sử của thủ đô Hà Nội. Đây cũng là lý do mà nhiều du khách tới đây tìm hiểu khám phá. Với nhiều du khách, trải nghiệm thú vị nhất là được tham quan hồ Tây bằng xe điện chạy quanh hồ. Ông Nguyễn Quang Lộc, người dân ở Quận Hai Bà Trưng, chia sẻ: “Trước đây, tôi chỉ nghe nói hồ Tây rộng, nhưng chưa đi qua hết. Nhưng khi đi xe điện quanh hồ, tôi hiểu thêm về các làng nghề, di tích, đình chùa xung quanh hồ Tây”.
Ở thủ đô Hà Nội, hồ Tây là khu vực có hệ thống di sản, di tích đa dạng. Chỉ riêng khu vực quanh hồ Tây hiện còn có hơn 20 ngôi đình, đền, chùa được xếp hạng với nhiều di tích nổi tiếng. Mỗi khi mùa xuân về, những di tích này thu hút hàng vạn du khách trong và ngoài nước đến chiêm ngưỡng, tham quan lễ chùa. Với vị trí độc đáo, hồ Tây là nơi gắn liền với nhiều truyền thuyết, các công trình nghệ thuật, kiến trúc, đồng thời là di sản lịch sử của thủ đô Hà Nội. Đây cũng là lý do mà nhiều du khách tới đây tìm hiểu khám phá. Với nhiều du khách, trải nghiệm thú vị nhất là được tham quan hồ Tây bằng xe điện chạy quanh hồ. Ông Nguyễn Quang Lộc, người dân ở Quận Hai Bà Trưng, chia sẻ: “Trước đây, tôi chỉ nghe nói hồ Tây rộng, nhưng chưa đi qua hết. Nhưng khi đi xe điện quanh hồ, tôi hiểu thêm về các làng nghề, di tích, đình chùa xung quanh hồ Tây”.
Hồ Tây ngày nay vẫn là một khu vực xanh của thành phố. Không chỉ vẻ đẹp của mặt nước xanh mênh mông, mà còn là vẻ đẹp thơ mộng của hoa bằng lăng tím, và sự rực rỡ của những cành hoa phượng hồng mỗi khi mùa hè đến. Mặt nước Hồ Tây luôn mang theo làn gió mát, giúp tâm hồn con người thêm thư thái. Với không gian như vậy, Hồ Tây thực sự là điểm đến lý tưởng cho nhiều người dân Hà Nội để thư giãn và tận hưởng cuộc sống.
Từ những vùng đất hoang sơ, từ những khu rừng sâu, qua công lao của nhiều thế hệ và sự đóng góp đặc biệt của các vương phi trong các triều đại, Hồ Gươm đã trở thành một điểm du lịch văn hóa nổi tiếng của thủ đô Hà Nội. Vì vậy, chúng ta hãy cùng bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên này.
Thuyết minh về Hồ Gươm
Hà Nội không chỉ là trung tâm chính trị của Việt Nam, không chỉ là nơi đau thương và mất mát của chiến tranh, mà còn là một địa danh lịch sử gắn liền với nhiều kỷ niệm đẹp trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Trong đó, Hồ Gươm là một điểm đến không thể bỏ qua.
Hồ Gươm không chỉ là một địa danh đẹp của Hà Nội, mà còn là một di tích lịch sử quan trọng của đất nước. Nó liên quan mật thiết đến truyền thuyết về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn, là một phần không thể tách rời của lịch sử dân tộc.
Hồ Gươm là một hồ nước ngọt tự nhiên nằm ngay giữa trung tâm của Hà Nội. Với diện tích 12ha, nước hồ luôn xanh ngắt quanh năm. Nó là biểu tượng của thành phố, gắn liền với nhiều câu chuyện lịch sử và văn hóa của người dân Hà Nội và cả nước Việt Nam.
Hồ Gươm đã chứng kiến biết bao sự thăng trầm của lịch sử qua thời gian. Là nơi các đời vua đã đến để tiến hành các nghi lễ trọng đại. Với giá trị lịch sử đặc biệt đối với Hà Nội và cả Việt Nam, Hồ Gươm đã trở thành điểm đến của nhiều du khách trong và ngoài nước mỗi khi họ đặt chân đến Thủ đô. Không ai có thể phủ nhận giá trị kiến trúc và lịch sử của Hồ Gươm.
Với người dân Hà Nội, Hồ Gươm không chỉ là nơi dừng chân, ngắm cảnh hay thư giãn. Hồ Gươm đã chia sẻ với họ những biến động của thời gian, là một biểu tượng vô cùng quan trọng đối với người dân Hà Nội. Như một người bạn, một tri kỷ, Hồ Gươm là dấu ấn không thể thiếu trong tâm hồn người dân Hà Nội.
Hồ Gươm thường là nơi diễn ra các sự kiện quan trọng của đất nước. Nước hồ trong xanh mang lại cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái, đặc biệt vào mùa hè. Hồ Gươm cũng là điểm đến lý tưởng của sinh viên muốn nâng cao khả năng giao tiếp với người nước ngoài.
Hồ Gươm không chỉ là danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử, mà còn là biểu tượng của Hà Nội và người dân nơi đây. Đến với Hồ Gươm, bạn sẽ cảm nhận được tất cả những điều tuyệt vời về nơi này.
Thuyết minh về danh lam thắng cảnh bến Ninh Kiều - Cần Thơ
Bản hòa âm u buồn dẫn ta về miền Nam Bộ, nơi những phong cảnh tuyệt vời gợi nhớ cho lòng người. Cần Thơ nằm giữa lòng đồng bằng sông Cửu Long, trong một mê lưới sông kênh rạch sôi động.
'Cần Thơ với cánh đồng lúa trắng, dòng nước trong lành, ai đặt chân đến đây mà lòng không muốn quay về?'
Cần Thơ giáp với 6 tỉnh: bắc giáp An Giang và Đồng Tháp, nam giáp Sóc Trăng, Bạc Liêu, tây giáp Kiên Giang, đông giáp Vĩnh Long. Với hệ thống sông kênh như sông Hậu, sông Cần Thơ, sông Cái Tư, sông Cái Sàn, kênh Quản Lộ, kênh Phụng Hiệp, kênh Xã No. Các tuyến đường lớn như quốc lộ 1A, quốc lộ 80, quốc lộ 91 chạy qua tỉnh. Cần Thơ là trung tâm giao thông thủy bộ của vùng Nam Bộ, nối liền với Campuchia, có bến cảng tiếp nhận tàu 5000 tấn, và sân bay Trà Nóc ven sông Hậu. Từ xưa, Cần Thơ được xem là trung tâm gạo của miền Tây Nam Bộ, hiện là một trong những tỉnh sản xuất và xuất khẩu lúa gạo hàng đầu. Với đất phì nhiêu, cùng với thế mạnh về lúa và các loại cây ăn quả, Cần Thơ còn có nguồn thủy sản phong phú như tôm cá nước ngọt (hơn 5000ha ao nuôi tôm cá) và chăn nuôi heo, gà, vịt. Các ngành công nghiệp như điện năng (nhà máy điện Trà Nóc: 33000kw), kỹ thuật điện, điện tử, hóa chất, may mặc, da và chế biến nông sản, thủy sản… là những điểm mạnh của tỉnh.
Vùng đất ấy là của những con người hào phóng, những tài tử và người đẹp Cần Thơ. Họ luôn tự hào và kiêu hãnh khi nhắc về bến Ninh Kiều:
'Ở Cần Thơ có bến Ninh Kiều, dòng sông êm đềm, và nhiều người đẹp'
Ngày xưa, bến Ninh Kiều là trung tâm giao thương ở Cần Thơ. Dòng người qua lại, thuyền bè lưu thông, hàng cây dương chắn gió bên bờ đã tạo nên bến Hàng Dương - tên gọi đặc trưng của nơi này. Với sự phát triển của thương mại, bến Hàng Dương đã được mở rộng, sửa sang, trở thành một điểm du lịch quan trọng ở Tây Đô. Sau năm 1958, bến này chính thức mang tên bến Ninh Kiều. Truyền thuyết dân gian kể rằng, vào những đêm trăng sáng, bến Ninh Kiều tấp nập với những bài thơ của tài tử giai nhân, từ đó còn có tên gọi khác là bến Cầm Thi, Cầm Thi đọc trại là Cầm Thơ, sau trở thành Cần Thơ.
Dân Cần Thơ luôn tự hào với bến Ninh Kiều, nơi bên bờ sông Hậu hiền hòa. Bến Ninh Kiều là điểm đến yêu thích của du khách, nằm ở trung tâm thành phố Cần Thơ. Bên bến, thuyền bè qua lại, mang theo những sản vật từ đồng bằng sông Cửu Long. Cảng Cần Thơ gần bến Ninh Kiều, là nơi tiếp nhận tàu 5000 tấn. Ninh Kiều ngày nay là niềm tự hào của dân Cần Thơ, là nơi thu hút thương nhân và du khách, cũng như là nơi để những người lữ khách tìm về.
'Ở Châu Thành anh sinh sống, em từ xứ Cần Thơ về. Dòng sông nào đã cạn biển thể, những vòng tay mai trúc, dầm dề cuộc sống'
Không quá lời khi nói rằng Ninh Kiều như một kho trái cây phong phú, bên cạnh dòng sông là những loại trái cây ngon và đặc sản của miền Nam như xoài, vú sữa, quýt, măng cụt, sầu riêng, bưởi... Cần Thơ ngày nay đang phát triển mạnh mẽ, là một thành phố trẻ trung và năng động, một điểm tự hào của miền Tây. Dù đã thay đổi, bến Ninh Kiều vẫn giữ được sự quyến rũ và là điểm đến quen thuộc của mọi người.
'Khi tôi đến Cần Thơ, phố sông mưa như sương, đường xa gió thổi. Tôi tự hỏi liệu ai còn nhớ?'
Em chờ đợi ngày anh trở về Cần Thơ,
Có ai hiểu được những giọt nước mắt mờ?
Hay chỉ một lần gặp gỡ anh đã quên hết?
Người nào đi về Cần Thơ?
Hỏi anh ta đã bao giờ
Bước chân bên em, cùng nhau trên Ninh Kiều ước mơ?
Giới thiệu về chùa Dâu ở Bắc Ninh
Bắc Ninh, vùng đất truyền thống, nổi tiếng với âm nhạc dân gian quan họ ngọt ngào, gần gũi. Nơi đây còn có nhiều di tích chùa miếu, mạo độc đáo, là di sản văn hóa quý giá của cả nước. Trong số đó, chùa Dâu, một biểu tượng của Phật giáo, được coi là một trong những ngôi chùa quan trọng nhất ở đây.
Chùa Dâu, còn được biết đến với tên gọi khác như chùa Cả, Cổ Châu Tự, Diên Ứng Tự, là nơi lịch sử phát triển sớm nhất của Phật giáo Việt Nam. Được biết đến với kiến trúc độc đáo, với những tháp chín tầng, cầu chín nhịp, chùa Dâu là một biểu tượng văn hóa của Bắc Ninh từ xưa đến nay.
Chùa Dâu được xây dựng vào giai đoạn đầu của Công Nguyên (khoảng từ năm 187 đến năm 226). Đây là ngôi chùa có tuổi đời lâu nhất và gắn bó với lịch sử văn hóa và Phật giáo của Việt Nam. Từ những ngày đầu tiên cho đến hiện tại, chùa đã trải qua nhiều lần tu sửa, phục hồi do ảnh hưởng của thời gian và chiến tranh.
Sự phát triển mạnh mẽ của dòng phái Nam Tông từ Ấn Độ, kết hợp với ảnh hưởng của Phật giáo Trung Hoa, đã khiến cho chùa Dâu trở thành trung tâm của phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, nơi có nhiều cao tăng đến từ Việt Nam, Ấn Độ và Trung Quốc để nghiên cứu, phiên dịch kinh Phật, đào tạo tăng ni. Một thời, nơi đây được coi như là trung tâm của Phật giáo Việt Nam.
Chùa Dâu được xây dựng theo kiểu 'nội công ngoại quốc', với bốn dãy nhà liền kề hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện.
Tiền đường của chùa Dâu có tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; Gian thiêu hương có tượng Cửu Long, hai bên có tượng Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện có tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ) và các vị hầu cận. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính.
Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2m được bày ở gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.
Bên trái của thượng điện có tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, người sáng lập phái thiền tông ở Việt Nam, từng đến chùa này để tu thiền. Bức tượng được đặt trên một kệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại vào thế kỷ 14.
Giữa sân chùa rộng lớn là cây tháp Hòa Phong. Tháp được xây bằng gạch cỡ lớn, nung thủ công tới màu sẫm già của vải sành. Mặc dù thời gian đã làm mất đi sáu tầng trên của tháp, nhưng chỉ còn lại ba tầng dưới, cao khoảng 17m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7m. Tầng dưới có 4 cửa vòm.
Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33m, cao 0,8m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.
Sự phát triển của chùa Dâu liên quan chặt chẽ đến truyền thuyết về phật mẫu Man Nương, thể hiện sự hòa quyện giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian đặc sắc của người Bắc Ninh. Mỗi năm, lễ hội chùa Dâu lại diễn ra, tái hiện sự tích của các vị Tứ Pháp, Man Nương. Đây là dịp để cư dân vùng đất lúa nước thể hiện sự sùng bái và tín ngưỡng cổ sơ của mình. Lễ hội được tổ chức trang trọng, theo đúng truyền thống để kỷ niệm ngày Phật mẫu Man Nương hạ sinh nữ nhi. Nghi lễ và trò chơi dân gian thu hút nhiều du khách và tín đồ đến tham dự.
Dù đã trải qua hàng ngàn năm, phần “lễ” của hội vẫn giữ lại nét đẹp và giá trị văn hóa truyền thống phản ánh đời sống tín ngưỡng đa dạng, sự sáng tạo phong phú của người xưa được lưu giữ cho đến ngày nay.
Di tích lịch sử của chùa Dâu đã là một phần không thể thiếu trong đời sống dân gian suốt hàng thế hệ. Dù ngày nay, di tích này không còn như xưa nhưng vẫn giữ được ý nghĩa và giá trị quý báu trong lòng mọi người:
Dù ai đi đâu, mua sắm gì,
Khi nhìn thấy tháp chùa Dâu thì lòng về nhà.
Dù ai đi khắp muôn nơi,
Nhớ ngày mồng tám, về tham dự lễ hội chùa Dâu.
Giới thiệu về chùa Tam Chúc
Khu du lịch Tam Chúc (Ba Sao, Hà Nam) được gọi là 'Hạ Long trên cạn', nơi thể hiện vẻ đẹp tự nhiên và hùng vĩ giống như trong những giấc mơ. Du khách đến đây sẽ cảm nhận được sự thanh bình, yên tĩnh và tinh tế đặc biệt.
Quần thể khu du lịch Tam Chúc nằm trên đất Ba Sao, Kim Bảng, Hà Nam. Nơi đây được Thủ tướng công nhận là Khu du lịch quốc gia theo Quyết định số 201/QĐ-TTG ngày 22/01/2013. Đặc biệt, Chùa Tam Chúc sẽ đăng cai Đại lễ Vesak năm 2019 (Đại hội Phật giáo thế giới) vào tháng 5/2019 và cũng là thời điểm khánh thành giai đoạn I của Chùa.
Chùa Tam Chúc rộng khoảng 5.000ha, bao gồm hồ nước: 1.000ha, núi đá rừng tự nhiên: 3.000ha, và các thung lũng: 1.000ha. Đây là một ngôi chùa đặc biệt với phong cảnh hùng vĩ: trước là sáu quả núi nhạn, sau là bảy quả núi thất tinh (nghĩa là sáu quả núi giữa hồ và bảy quả núi có thể tỏa sáng vào ban đêm).
Ngôi chùa được xây dựng bởi rất nhiều thợ thủ công lành nghề từ nhiều truyền thống tôn giáo như Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo. Năm 2000, trong quá trình làm thủy lợi cho lòng hồ Tam Chúc, các công nhân phát hiện nhiều dấu vết vật liệu cổ xưa liên quan đến chùa Tam Chúc. Từ các vật liệu khảo cổ, có thể suy luận rằng chùa Tam Chúc đã có niên đại trên 1000 năm.
Sau hàng nghìn năm, chỉ còn lại những dấu vết của cột gỗ, cột đá, và các khối đá còn chôn lấp dưới nền móng cũ, trong đó có những cột gỗ có đường kính trên 1m, và những khối đá lớn mà chúng ta không thể hiểu được cách ông cha xưa đã xây dựng chùa với kích thước lớn như vậy.
Chùa Tam Chúc được xây dựng lại với khoảng 12.000 bức tranh đá mô tả câu chuyện của Đức Phật, được nghệ nhân Hồi giáo ở Indonesia tạc bằng đá núi lửa rồi mang sang Việt Nam.
Hiện tại, chùa Tam Chúc đang xây dựng một vườn cột kinh khổng lồ với 1.000 cột đá, mỗi cột cao 12m, nặng 200 tấn. Hiện đã hoàn thành khoảng 36 cột kinh do các nghệ nhân Việt Nam tài năng tạo ra. Đây sẽ là vườn cột kinh lớn nhất thế giới khi hoàn thiện.
Trục thần đạo của Chùa Tam Chúc bao gồm: Chùa Ngọc, Điện Tam Thế, Điện Pháp Chủ, Điện Quan m, Cổng Tam Quan, và Phòng họp Quốc tế. Các ngôi điện và các pho tượng Phật tại chùa Tam Chúc có diện tích và kích thước rất lớn.
Chùa Ngọc nằm trên đỉnh núi Thất Tinh, hiện đang được xây dựng bởi các nghệ nhân Ấn Độ giáo và dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2018.
Điện Tam Thế cao 39m, diện tích sàn 5.400m², có thể chứa đến 5.000 Phật tử hành lễ cùng một lúc. Phía dưới là Điện Pháp Chủ với pho tượng bằng đồng nguyên khối nặng 150 tấn.
Phòng họp Quốc tế nổi trên mặt hồ, có diện tích sàn 10.000m², chỗ ngồi cho 3.500 người và Cổng Tam Quan đang trong quá trình xây dựng. Dự kiến, quần thể chùa sẽ hoàn thành vào năm 2048. Từ khi khởi công đến khi hoàn thành mất 50 năm.
Quần thể khu du lịch Tam Chúc, Ba Sao là điểm đến tâm linh hấp dẫn, là sự kết hợp hoàn hảo giữa vẻ đẹp cổ kính của ngôi chùa nghìn năm tuổi với vẻ hùng vĩ của non nước bao la. Không khí trong lành và tiếng chim hót giữa núi rừng làm say lòng bất kỳ du khách nào đặt chân đến đây.
Hiện nay, mạng lưới giao thông giữa Hà Nội và Hà Nam đã được phát triển mạnh mẽ. Chùa Tam Chúc, cách chùa Bái Đính 30km và chùa Hương 4,5km, tạo nên một khu du lịch tâm linh đặc sắc, thu hút khách du lịch từ trong và ngoài nước. Với mục tiêu quản lý và phát triển bền vững, khu du lịch Tam Chúc được kỳ vọng sẽ góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Nam.
Trình bày về chùa Tây Phương
Khi nhắc đến Hà Nội, mọi người thường nghĩ đến những danh thắng nổi tiếng như Văn Miếu Quốc Tử Giám, hồ Hoàn Kiếm, đền Ngọc Sơn, chùa Trấn Quốc… và không thể không kể đến ngôi chùa có giá trị tâm linh cao, được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt - chùa Tây Phương.
Chùa Tây Phương nằm ở xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội. Theo truyền thuyết, chùa được xây dựng từ thế kỷ thứ sáu. Câu chuyện kể lại rằng vào những năm 324 – 326, thời niên hiệu Hàm Hòa thời Đông Tấn Cát, một quan ở huyện Giao Châu nghe nói trên núi Cát Lậu có Chu Sa Đỏ, muốn tìm để làm thuốc trường sinh nên ông đã cùng nhân dân xây dựng ngôi chùa nhỏ để thờ tự. Sau nhiều biến cố lịch sử, vào năm 1794, thời kỳ Tây Sơn, chùa đã được tu bổ và đổi tên thành chùa Tây Phương hay còn gọi là Sùng Phúc Tự. Dân gian thường gọi đơn giản là chùa Tây.
Chùa Tây Phương nằm trên đỉnh núi Câu Lậu (hay còn gọi là núi Tây Phương), cao khoảng 50m. Núi Câu Lậu được ví như con trâu đầu đàn quay đầu xuống dòng sông Tích uống nước. Đây còn là nơi có 9 ngọn núi tạo thành một bức tranh tự nhiên giống như một đàn trâu. Để đến chùa, sau khi qua cổng Tam Quan, du khách phải bước qua 237 bậc thang đá ong. Chùa được xây dựng theo kiến trúc mặt bằng chữ tam với 3 tòa nhà song song là Hạ - Trung - Thượng; tường bao quanh chùa được xây kín, tạo thành kết cấu viền chữ còng. Kiến trúc của chùa đã trở thành một điển hình của các ngôi chùa ở miền Bắc, với hai tầng mái giấu thiềm, lợp ngói mũi hài, các góc mái đao vươn lên cong vút, bên trên có gắn tứ linh thú (bốn con vật linh thiêng). Chùa có tổng cộng 64 pho tượng, trong đó có 18 tượng La Hán và điểm nhấn nghệ thuật nhất là pho tượng phật bà Quan âm nghìn mắt, nghìn tay. Cửa sổ trong chùa được chạm khắc hình tròn, mang ý nghĩa “sắc sắc không không”. Bên trong có nóc mái, rui mè đều có mông ô vuông được trang trí tô màu mô phỏng áo Cà Sa nhà Phật. Chùa còn có một chiếc chuông nặng tới 200kg. Nhờ những nét đặc sắc này, vào ngày 24/04/1962, chùa Tây Phương đã được công nhận và xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia.
Nét tinh tế của tượng Phật tại đây luôn được ngợi khen. Chúng thật sự là những tác phẩm tuyệt vời từ những nghệ nhân xa xưa. Huy Cận đã viết một bài thơ nổi tiếng về các vị La Hán tại chùa Tây Phương, với những dòng thơ sâu sắc:
'Đây là hình ảnh chân thực của xương trần
Những bức tranh này thiêu đốt tấm thân mong manh
Những cảm xúc đau đớn sâu thẳm trong đôi mắt
Ngồi yên như vậy từ lâu.
Một số vị La Hán có đôi mắt sáng rực, và nét mày nhăn nhó
Trán của họ như là biển cả vô tận
Môi cong, trái tim khô héo
Bàn tay vặn xoắn, máu sôi trong gân.
Có vị có tay chân uốn cong
Hình dạng của họ giống như thai nhi trong bụng mẹ
Nhưng đôi tai của họ lớn và tròn
Cả cuộc đời nghe thấy biết bao nỗi buồn…'
Hình ảnh về các vị La Hán trong bài thơ rất độc đáo. Một nhà nghiên cứu văn học đã nhận xét: 'Huy Cận đã vẽ ra những hình ảnh bên ngoài nhằm thể hiện nội tâm của các vị A-la-hán, nơi chứa đựng sự đau đớn, khổ đau và vất vả của con người trần thế…'. Các pho tượng là biểu tượng của cuộc sống khó khăn, đau đớn mà người dân phải đối mặt vào thế kỷ XVIII. Tượng Phật Bà Quan Âm với ngàn mắt ngàn tay là một nghệ thuật đặc biệt, thể hiện lòng từ bi bao dung, lắng nghe tiếng than khóc của chúng sanh và mang đến sự cứu giúp.
Là một điểm tham quan nổi tiếng, chùa Tây Phương thu hút rất nhiều du khách trong và ngoài nước. Đặc biệt vào những ngày lễ hội vào tháng ba âm lịch hàng năm, đây trở thành điểm đến được rất nhiều người lựa chọn. Không khí tại đây luôn sôi động và náo nhiệt. Du khách đến đây không chỉ để cầu bình an mà còn để thưởng ngoạn vẻ đẹp của ngôi chùa. Chùa Tây Phương cũng đóng góp vào phát triển kinh tế địa phương và là niềm tự hào của quốc gia.
Chúng ta có lý do để tự hào với vẻ đẹp tuyệt vời của nơi này. Hãy bảo vệ và giữ gìn những giá trị văn hóa, điêu khắc độc đáo của quê hương chúng ta.
Bài giới thiệu về chùa Yên Tử
Núi Yên Tử, với biệt danh 'đất tổ của Phật giáo Việt Nam', không chỉ là một thắng cảnh thiên nhiên tuyệt vời mà còn là nơi lưu giữ nhiều di tích lịch sử quan trọng. Đỉnh núi Yên Tử, hay còn gọi là Bạch Vân sơn, thường che phủ bởi mây trắng, được biết đến với vẻ đẹp hoang sơ và là một trong những cảnh quan tuyệt đẹp nhất Việt Nam. Nơi đây còn có các di tích lịch sử như những ngôi chùa cổ và tháp cổ, kèm theo rừng cây cổ thụ lâu đời. Đỉnh Yên Tử cũng là trung tâm của Phật giáo, từ khi vua Trần Nhân Tông từ bỏ ngôi đền vàng để tu hành và thành lập Thiền phái Trúc Lâm.
Vào 700 năm trước, sau chiến thắng trước quân Mông Cổ, vua Trần Nhân Tông đã từ bỏ ngôi đền để lên Yên Tử tu hành và nghiên cứu Phật pháp, đồng thời liên kết với triết lý nhân sinh dân tộc để thành lập Thiền phái Trúc Lâm với tư tưởng 'tu tại tâm'. Ngày nay, tư tưởng này đã được truyền bá rộng rãi thông qua nhiều trung tâm Thiền phái Trúc Lâm trên cả nước và quốc tế, thu hút sự quan tâm và theo học của nhiều người.
Hành trình thăm quan Yên Tử bắt đầu từ suối Giải Oan, qua một cây cầu đá xanh kết nối hai bờ suối. Cây cầu không quá lớn nhưng mang lại vẻ đẹp cổ kính và vững chãi, hài hòa với thiên nhiên xung quanh. Tiếp theo là chùa Hoa Yên với hàng cây tùng cổ truyền từ thời vua Trần Nhân Tông. Chùa mới được xây dựng với phong cách kiến trúc thời Trần - Lê, đồng thời bảo tồn những di tích cổ kính.
Chùa Đồng là điểm dừng chân cao nhất trên hành trình. Được xây dựng từ thời Hậu Lê, chùa là nơi linh thiêng và được truyền thống từ ngàn năm trước. Đặc biệt, tại khu vực này, một bức tượng đồng của Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã được khánh thành từ năm 2010.
Trên con đường, du khách có thể ghé thăm những điểm như: Tháp Tổ, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, tượng đá Yên Kỳ Sinh, am Ngọa Vân, bàn cờ tiên, cũng như các khu du lịch sinh thái Thác Vàng, Thác Bạc. Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử được xây dựng trên nền của chùa Lân, nơi mà vua Trần Nhân Tông từng thuyết giảng. Đây là thiền viện lớn nhất trong nước với kiến trúc đẹp mắt và uy nghi, góp phần làm cho non Yên Tử trở nên trang trọng và uy nghiêm, cũng như bảo tồn và nghiên cứu các tài liệu cổ, văn hóa Phật giáo Việt Nam.
Đường lên Chùa Đồng trước đây rất khó đi, mất đến 5-6 tiếng để leo lên. Gần đây, chính phủ và các cơ quan liên quan đã đầu tư xây dựng hệ thống cáp treo với 2 trạm, giúp du khách dễ dàng ngắm nhìn toàn cảnh rừng núi Yên Tử từ trên cao.
Đường bộ cũng đã được nâng cấp với những bậc đá và hệ thống đèn chiếu sáng, giúp du khách dễ dàng tiếp cận với chùa Đồng và trải nghiệm lễ Phật.
Việc đi lễ chùa vào dịp Xuân đem lại niềm vui không thể nào tả được, khi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp hùng vĩ của núi Yên Tử và những tác phẩm nghệ thuật từ thời Trần, cùng những di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh tuyệt vời.
Giới thiệu về thành nhà Hồ
Địa danh Thành Nhà Hồ, thuộc tỉnh Thanh Hóa ngày nay, từng là trung tâm của đất nước Việt Nam từ năm 1398 đến 1407. Đây là một trong những hệ thống thành lũy bằng đá hiếm có còn tồn tại ở khu vực Đông Nam Á.
Thành Nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới nhờ những giá trị văn hóa, lịch sử và kỹ thuật xây dựng độc đáo của nó.
Thành được xây dựng bởi Hồ Quý Ly vào năm 1397, trong thời gian ông giữ chức tể tướng dưới thời nhà Trần, được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như thành An Tôn, Tây Đô, Tây Kinh, Tây Nhai, Tây Giai.
Sau khi xây xong, Hồ Quý Ly đã chuyển đô từ Thăng Long về Thanh Hóa và lên ngôi vua vào năm 1400, đặt quốc hiệu Đại Ngu. Mặc dù chỉ kéo dài 7 năm, triều đại này lại ghi dấu với việc Thành Nhà Hồ trở thành kinh đô.
Thành Nhà Hồ đáp ứng đầy đủ hai tiêu chí về văn hóa để được UNESCO công nhận là Di sản thế giới, thể hiện sự phát triển trong kiến trúc, công nghệ, nghệ thuật điêu khắc và cách quy hoạch thành phố.
Tiêu chí thứ tư “Trở thành một minh chứng xuất sắc cho loại công trình, kiến trúc, hoặc cảnh quan minh họa giá trị của một (hoặc nhiều) giai đoạn trong lịch sử nhân loại”.
Công trình này được đánh giá cao về mặt kỹ thuật xây dựng các khối đá, được cho là không có gì sánh kịp ở Việt Nam và khu vực Đông Á, Đông Nam Á vào thời kỳ cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV. Kiến trúc Thành Nhà Hồ được đánh giá là rất hợp lý, với các khối đá lớn được đục và xếp chồng chéo theo hình múi bưởi để chống lại các tác động như động đất.
Điều đặc biệt là các khối đá không được kết dính lại với nhau nhưng thành vẫn tồn tại vững chắc hơn 600 năm, vượt qua nhiều đợt địa chấn và tấn công bằng bom. Thú vị hơn, công trình to lớn này chỉ mất 3 tháng đầu năm 1397 để hoàn thành.
Theo các tài liệu và nghiên cứu khảo cổ, quần thể di sản Thành Nhà Hồ bao gồm Thành nội, Hào thành, La thành và Đàn tế Nam Giao ở bên ngoài thành. Trong đó, Hoàng thành là công trình lớn nhất và duy nhất còn nguyên vẹn cho đến nay.
Tường thành được làm từ bốn cổng chính làm từ đá vôi xanh, được đục tỉ mỉ và xếp chồng lên nhau. Những khối đá này có kích thước lớn, với độ dài lên đến hơn 6 mét và trọng lượng khoảng 20 tấn. Cách vận chuyển khối đá lớn như vậy được giải thích bằng việc sử dụng hòn bi đá để lăn chuyển chúng.
Những khối đá to này có chiều dài lên đến hơn 6 mét, nặng khoảng 20 tấn, vẫn nối liền chặt chẽ mà không cần bất kỳ chất kết dính nào
Trong quá khứ, bên trong thành còn tồn tại nhiều công trình lộng lẫy như Điện Hoàng Nguyên, Cung Diên Thọ (nơi Hồ Quý Ly ở), Đông cung, Tây Thái Miếu, Đông Thái Miếu… không kém cạnh kinh thành Thăng Long. Nhưng qua hơn 6 thế kỷ với nhiều yếu tố tác động từ cả nội và ngoại, hầu hết các công trình kiến trúc này đã bị hoàn toàn phá hủy.
Trước đây, bên trong thành còn nhiều công trình hùng vĩ nhưng đã hoàn toàn biến mất. Một bí ẩn lớn liên quan đến công trình là sự mất tích của đầu rồng trên cặp rồng được khắc tỉ mỉ bên trong hoàng thành. Đôi tượng rồng đá này được các nhà sử học đánh giá là loại tượng rồng lớn và đẹp nhất còn tồn tại ở Việt Nam. Chúng có hình dáng thon gọn từ phần thân đến đuôi, uốn cong mềm mại, phủ kín vảy. Hai con rồng này còn mang giá trị nghệ thuật khắc chạm độc đáo của thời Trần thịnh.
Có nhiều giả thuyết về việc giải thích tại sao đầu rồng biến mất, nhưng một trong những giả thuyết được nhiều người chấp nhận nhất là sau khi quân Minh xâm lược nước ta, họ đã cắt đầu rồng mang về để báo công.
Thành Nhà Hồ là một di tích lịch sử quan trọng, có giá trị văn hóa và kiến trúc lớn trong quá khứ. Đến thăm di tích này, du khách có cơ hội khám phá sự độc đáo của công trình cổ và hiểu hơn về kỹ thuật công phu này. Đây là điểm đến ngày càng thu hút sự chú ý của nhiều du khách trong và ngoài nước.
Giới thiệu về ruộng bậc thang Mù Cang Chải
Ruộng bậc thang Mù Cang Chải rộng lớn trên diện tích hơn 2.300ha, tập trung chủ yếu ở 3 xã La Pán Tẩn, Dế Xu Phình và Chế Cu Nha. Đây là nơi lúa nước của người Mông được cày cấy, cũng là minh chứng cho sự khéo léo trong việc trồng trọt phù hợp với điều kiện thời tiết, đất đai và thủy lợi của dân tộc dân tộc miền núi.
Dừng lại ven đường, nhìn xuống những cánh đồng lúa trên ruộng bậc thang, du khách sẽ bị ấn tượng bởi vẻ đẹp hoàn hảo của thiên nhiên. Ánh nắng vàng của mùa thu chiếu rọi, giảm đi chút nhiệt, dưới chân là những ruộng bậc thang toàn lúa đã chuyển sang màu vàng… Mù Cang Chải như một bức tranh tuyệt đẹp, từng chi tiết nhỏ, lãng mạn, lôi cuốn lòng người. Một cảm giác khiến bạn không thể diễn đạt, chỉ biết thưởng thức và ghi lại nhiều nhất có thể.
Trong 'biển vàng' của mùa lúa chín, mùi thơm ngọt nồng vẫn lưu luyến, phủ mặt của người nông dân đất đai nơi này… rồi họ về nhà, giữa tiếng cối xay vang vọng để tạo ra hạt gạo, hạt cơm thơm ngon. Ghé thăm những bản làng nơi đây, bạn sẽ cảm nhận được cuộc sống giản dị, gần gũi, thân thuộc của người dân bản địa thân thiện. Đột nhiên bạn cảm nhận sâu sắc hơn về sự cần cù, cần mẫn, lòng nhân ái từ nhiều thế hệ qua để tạo ra những bậc thang cao chót vót vươn tới bầu trời…
Ruộng bậc thang Mù Cang Chải là một di tích quốc gia quan trọng, thể hiện văn hóa và kiến trúc đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Du khách đến đây không chỉ ngắm nhìn ruộng bậc thang vàng rực, mà còn tham gia vào chuỗi sự kiện đa dạng và hấp dẫn như các lễ hội văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao, ẩm thực như: phiên chợ vùng cao, tham quan ruộng bậc thang, chương trình chiếu phim, xe thư viện di động, tour du lịch sinh thái, triển lãm ảnh, khảo sát bãi đá cổ, hội thi khèn Mông, hội thi chọi dê và các hoạt động thể thao dân tộc khác.
Với chủ đề “Mùa vàng trên non”, lễ hội Danh thắng quốc gia Ruộng bậc thang Mù Cang Chải năm 2015 thực sự là một bữa tiệc văn hóa đa dạng, mang đến nhiều cảm xúc, ấn tượng sâu sắc đối với du khách trong và ngoài nước.
Giới thiệu về địa danh núi Voi
Núi Voi, được Nhà nước công nhận là điểm đến quan trọng thu hút khách du lịch từ mọi nơi đến tham quan, khám phá các giá trị đa dạng.
Trong hành trình khám phá vùng quê An Lão- Tiên Lãng- Vĩnh Bảo, trên trục đường 10 gần ngã 3 gặp đường ô-tô cao tốc Hà Nội – Hải Phòng khoảng hơn 3km, du khách sẽ đến với khu di tích, danh thắng Núi Voi, huyện An Lão.
Ấn tượng ban đầu của du khách là hình dáng của Núi Voi to lớn như một đàn voi từ từ tiến ra biển. Địa danh quen thuộc này mang đến nhiều điều bí ẩn, trải nghiệm thú vị cũng như hiểu biết sâu sắc hơn về giá trị lịch sử, văn hóa của khu di tích, danh thắng này.
Trong những năm gần đây, huyện An Lão tập trung phát triển du lịch, đặc biệt là khu di tích, danh thắng Núi Voi, được Nhà nước công nhận là điểm đến quan trọng thu hút du khách từ cả trong và ngoài nước đến tham quan, khám phá giá trị đa dạng.
Trưởng phòng Văn hóa- Thông tin huyện An Lão Bùi Đức Bốn cho biết: Khu di tích và danh thắng Núi Voi có giá trị nổi bật về khảo cổ học; văn hóa, lịch sử; thắng cảnh du lịch; tiềm năng về văn hóa ẩm thực và văn hóa dân gian. Sự phong phú về lịch sử của Núi Voi được chứng minh thông qua các công cụ khảo cổ, đồ đá, đồng, sắt được khai quật trong hang động với nhiều dấu vết của cư dân thời Hùng Vương.
Về mặt địa lý, địa chất, vẫn còn sò, hến bám ở trong các hang, vách đá ở độ cao 5- 10 m. Hệ thống hang động huyền bí tại Núi Voi có sức cuốn hút đặc biệt. Vị trí địa lý của Núi Voi với hai dòng sông Lạch Tray và Đa Độ uốn khúc chảy quanh tạo nên cảnh sắc hữu tình, như một bức tranh thiên nhiên kỳ thú được thêu dệt từ chính cảnh đẹp sông núi, cánh đồng nơi đây, có thể so sánh như một “Hạ Long cạn”.
Khi thăm quần thể di tích Núi Voi, du khách có thể khám phá hang chân núi, nơi thờ nữ tướng Lê Chân, người có công khai phá vùng đất An Biên xưa, Hải Phòng ngày nay. Ngôi đền này được tu bổ, tôn tạo khang trang, tạo nên điểm đến lịch sử ấn tượng. Trên đỉnh núi, con đường mòn nhà Mạc đã được khôi phục, lát đá thành bậc để du khách đi lại thuận tiện hơn. Núi Voi còn là nơi diễn ra những trận chiến huyền thoại trong thời kháng chiến chống Mỹ.
Hang Thành ủy là một minh chứng về sức mạnh của Núi Voi, nơi mà ông cha ta đã chiến đấu gian khổ trong thời chiến tranh. Khu di tích Núi Voi mang trong mình giá trị lịch sử và là điểm đến hấp dẫn với mỗi du khách. Nơi này không chỉ có di tích như đình chùa Chi Lai ở sườn phía Bắc với những cây cổ thụ và vườn chè Chi Lai nổi tiếng mà còn có bảo tàng truyền thống ở phía Nam, ghi lại câu chuyện lịch sử của Núi Voi từ xưa đến nay.
Hoặc ngồi trên đỉnh núi nghe câu chuyện về các nàng tiên chơi cờ ở đỉnh Núi Voi rồi xuống hang Họng Voi để tắm giếng ngọc. Trong chuyến đi, du khách có thể thưởng thức “Chè Chi Lai, khoai Tiên Hội” hoặc mía ngon nổi tiếng ở khu Kênh Mía ven sông Văn Úc để kết thúc một chuyến đi đầy thú vị và còn nhiều điều chưa khám phá.
Thuyết minh về Chợ Bến Thành
Chợ Bến Thành, trước đây tọa lạc ở bến sông Tân Bình (sông Sài Gòn), gần bến nước của Thành Gia Định cũ và được xây cất trên một cái ao sình lầy (ao Bồ – Rệt).
Năm 1859, khi thực dân Pháp đánh Thành Gia Định, chợ Bến Thành bị thiêu trụi, sau đó được xây dựng lại ở vị trí Kho Bạc nằm trên đường Nguyễn Huệ với cột gạch, sườn gỗ và lợp lá… Năm 1870, chợ Bến Thành lần nữa bị hỏa hoạn, sau đó được xây dựng lại mới với 5 gian hàng: thực phẩm, cá, thịt, ăn uống và tạp hóa. Đến năm 1911, chợ lại được phá bỏ và xây dựng mới, cho đến 3 năm sau (năm 1914) mới chính thức khánh thành và đi vào hoạt động. Và năm 1985, chợ Bến Thành được sửa chữa lớn toàn bộ nhưng vẫn giữ nguyên dáng vẻ bên ngoài cho đến ngày nay.
Trải qua gần một thế kỷ tồn tại và phát triển, chợ Bến Thành luôn giữ vị trí là một Trung tâm thương mại tiêu biểu của thành phố, đồng thời cũng là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của người dân thành phố và của cả nước. Chợ Bến Thành không chỉ là nơi mua bán mà còn là một biểu trưng văn hóa gắn liền với lịch sử phát triển của thành phố Hồ Chí Minh và khu vực.
Chợ Bến Thành có 4 cửa hướng ra 4 con đường chính của trung tâm quận 1. Cửa Bắc nhìn ra đường Lê Thánh Tôn, cửa Nam nhìn ra đường Lê Lợi, cửa Đông nhìn ra đường Phan Bội Châu, cửa Tây nhìn ra đường Phan Chu Trinh và cổng chính có tháp cao nhìn ra Quảng trường Quách Thị Trang với 4 chiếc đồng hồ trên đỉnh tháp. Từ những chiếc đồng hồ này, chợ Bến Thành trở nên đặc biệt, tạo nên một không gian quen thuộc, sâu đậm và là điểm nhấn của Sài Gòn mà mọi du khách đều muốn đến thăm ít nhất một lần.
Trước năm 1945, chợ Bến Thành đã chứng kiến những cuộc biểu tình, mít tinh của nhân dân chống lại thực dân Pháp.
Với tiếng còi “Một, hai”, bài hát “Lên đàng”, với những thanh niên tiên phong dẫn đầu, chợ Bến Thành đã chứng kiến cảnh người Sài Gòn đón nhận ngày độc lập đầu tiên. Tại đây, dân quân Cách mạng đã tuyên thệ “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” hay “Vệ quốc quân một lần ra đi, nào có xá chi đâu ngày trở về”.
Hàng trăm ngàn sinh viên, phong trào công nhân và trí thức, cùng các tôn giáo đã đứng lên chống lại chính quyền Mỹ - Thiệu, đặc biệt là nữ sinh Quách Thị Trang đã hy sinh trước cổng chợ Bến Thành trong cuộc đấu tranh của Phật giáo chống lại chế độ độc tài của Ngô Đình Diệm, nay gọi là Quảng trường Quách Thị Trang.
Trước kia, khi đêm về, chợ Bến Thành phát ra âm thanh guốc, tiếng rao “Ai bột khoai, bún tàu, đậu xanh nước dừa đường cát…hôn”, tiếng lộc cộc của xe thổ mộ, tiếng đàn độc huyền cầm của những người ăn xin, nhưng ngày nay, chợ Bến Thành về đêm sôi động hơn, với tiếng gọi của nam thanh nữ tú vào ăn vội để chuẩn bị cho một đêm du ngoạn ở Sài Gòn, tiếng cười vui vẻ của trẻ em khi cùng cha mẹ đến mua ăn uống đêm mà không kịp về nhà, hoặc tiếng trả giá bằng tiếng Việt của du khách nước ngoài trong khu vực bán hàng lưu niệm.
Trong khoảng thời gian từ năm 2004 đến 2005, chợ Bến Thành đã được Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh công nhận là một chợ đạt chuẩn Văn minh - Thương nghiệp trong cuộc vận động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.
Có người nói, việc xây dựng một trung tâm thương mại đạt chuẩn quốc tế ở thành phố Hồ Chí Minh không quá khó khăn. Nhưng để duy trì được nét đặc trưng, bản sắc riêng của chợ Bến Thành giữa những thay đổi về quy hoạch và kiến trúc ở trung tâm thành phố thì lại cần sự công phu hơn nhiều. Người dân Sài Gòn và Nam Bộ đã làm điều đó suốt một thế kỷ qua. Với họ, chợ Bến Thành là niềm tự hào, là biểu tượng của thành phố năng động, là một công trình văn hóa.
Theo bình chọn của người tiêu dùng thông qua báo Sài Gòn Tiếp Thị, chợ Bến Thành đã được xếp hạng là 'Điểm du lịch được hài lòng nhất trong năm 2005'.
Thuyết minh về Quảng trường Ba Đình
Hà Nội, thủ đô có hàng ngàn năm văn hiến, đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc, cùng với nhiều công trình kiến trúc, di tích văn hóa, lịch sử quan trọng. Trong khoảng thời gian gần đây, quảng trường Ba Đình đã trở thành một trong những địa điểm quan trọng, đánh dấu nhiều bước tiến vĩ đại của dân tộc, cùng với những kỷ niệm đáng nhớ về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Quảng trường Ba Đình hiện nay là quảng trường lớn nhất tại Việt Nam, đặt ở trái tim của thủ đô Hà Nội, trên đường Hùng Vương, quận Ba Đình. Trong quá khứ, quảng trường Ba Đình từng là một khu đất trống trong hoàng thành Thăng Long. Sau khi hoàng thành bị phá hủy, vua Gia Long cho xây dựng thành Hà Nội mới, khu quảng trường nằm ở cửa phía tây của thành. Năm 1894, sau khi Pháp chiếm Đông Dương, họ phá hủy Thành Hà Nội để xây dựng trung tâm hành chính của Liên Bang Đông Dương, bao gồm quảng trường và các công trình khác. Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp và chính phủ của nhân dân Việt giành quyền kiểm soát khu vực quảng trường. Thị trưởng Hà Nội lúc đó là Trần Văn Lai đã đổi tên các con đường thành tên các anh hùng dân tộc và đổi tên quảng trường thành vườn hoa Ba Đình, để tưởng nhớ cuộc khởi nghĩa chống Pháp tại Ba Đình, Nga Sơn, Thanh Hóa. Ngày 2/9/1945, tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Người dân Việt Nam gọi nơi đây là quảng trường Ba Đình hoặc quảng trường Độc Lập để tưởng nhớ một mốc son chói lọa trong lịch sử dân tộc.
Quảng trường Ba Đình ngày nay có chiều dài 320m, rộng 100m, tổng diện tích khoảng 3200 mét vuông. Bề mặt được chia thành 210 ô cỏ, với 7 hàng dọc và 30 hàng ngang đều nhau, giữa các hàng có các lối đi rộng 1,4m, được lát đá. Dưới các ô cỏ có hệ thống ống dẫn nước, cống thoát nước, mạng lọc nước và cấp nước ngầm, giúp thảm cỏ luôn xanh tươi. Trung tâm quảng trường là một cột cờ cao 25m, lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới, khẳng định độc lập và chủ quyền của dân tộc. Xung quanh quảng trường Ba Đình là các công trình kiến trúc như phủ Chủ tịch, hội trường Ba Đình và Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, tạo nên một bức tranh văn hóa, lịch sử đặc biệt của đất nước.
Ngày nay, Quảng trường Ba Đình là nơi diễn ra các hoạt động kỷ niệm, lễ mít tinh quan trọng của chính phủ và là điểm tham quan, dạo chơi cho người dân và du khách. Quảng trường đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử như cuộc diễu binh ngày 2/9/1945 và lễ mít tinh 10/10/2010. Lễ thượng cờ, chào cờ và hạ cờ hàng ngày trở thành biểu tượng đẹp của thủ đô Hà Nội.
Quảng trường Ba Đình với cảnh quan và kiến trúc được quy hoạch khoa học và đẹp nhất Hà Nội, cùng với giá trị văn hóa, lịch sử, là một trong những địa điểm quý báu của Việt Nam, in sâu vào tâm trí của người dân. Nơi đây còn là nơi diễn ra các sự kiện quan trọng của đất nước và là biểu tượng của sự độc lập và tự do.
Thuyết minh về Nhà thờ Đức Bà
Mỗi thành phố đều mang vẻ đẹp riêng với các công trình, kiến trúc, di tích và thắng cảnh độc đáo. Nếu Hà Nội nổi tiếng với phố cổ, thì Hồ Chí Minh lại thu hút du khách với nhà thờ Đức Bà. Với kiến trúc độc đáo và ý nghĩa lịch sử sâu sắc, nhà thờ Đức Bà trở thành một trong những di tích đặc trưng của Sài Gòn ngày nay.
Nằm tại số 1, Công xã Paris, phường Bến Nghé, giữa trung tâm Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, Nhà thờ Đức Bà đồ sộ với kiến trúc cổ Pháp, không gian xanh mát, là biểu tượng đặc trưng của Sài Gòn.
Nhà thờ Đức Bà được xây dựng từ lâu đời. Năm 1960, sau khi chiếm Sài Gòn, Pháp chuyển một ngôi chùa bỏ hoang thành nhà thờ Công giáo. Sau đó, nhà thờ được mở rộng và cải tạo theo thời gian. Cuối cùng, kiến trúc sư J.Bourad thiết kế nhà thờ mới mang phong cách Roma và Gothic. Công trình này hoàn thành vào năm 1880 và được đặt tên là nhà thờ Đức Bà.
Khu vực nhà thờ Đức Bà được coi là đẹp nhất ở thành phố Hồ Chí Minh, nằm giữa quảng trường, không có hàng rào che chắn, tạo ra góc nhìn tuyệt đẹp từ mọi phía, thực sự là điểm nhấn độc đáo của thành phố. Mặt trước của thánh đường là một công viên, với bốn con đường tạo thành hình thánh giá. Ở trung tâm công viên là bức tượng Đức Mẹ Hòa Bình, và giữa hai tháp chuông là chiếc đồng hồ Thụy Sĩ lớn.
Gần 140 năm đã qua, nhà thờ Đức Bà vẫn tồn tại và vẫn đẹp như ngày nào. Thiết kế của nhà thờ theo phong cách La Mã và Gothic, không có vòng rào hoặc bờ tường bao quanh như các nhà thờ khác.
Nội thất thánh đường được thiết kế với một lòng chính và hai lòng phụ, tiếp đến là hai dãy nhà nguyện. Thánh đường có chiều dài 93m, 56 ô cửa kính được trang trí tinh xảo với họa tiết. Các cửa có hình ảnh hoặc sự kiện từ Kinh Thánh, cùng với 31 hình bông hồng tròn và 25 cửa sổ mắt bò đa màu. Sức chứa của thánh đường lên đến 1.200 người, không gian thông thoáng. Mặc dù không lớn bằng những công trình khác, nhưng thánh đường nhà thờ Đức Bà vẫn được xem là kiến trúc độc đáo và đẹp nhất trong các công trình thuộc địa Pháp lúc đó.
Tất cả vật liệu xây dựng và các phụ kiện kim loại đều được nhập từ Pháp. Bề mặt của công trình được lát gạch trần và đá xanh, được tính toán tỉ mỉ đến từng chi tiết. Một số bộ phận đã xuống cấp được thay thế bằng vật liệu trong nước, vẫn giữ được tính thẩm mỹ ban đầu. Kiến trúc thánh đường tạo ra hiệu ứng ánh sáng tuyệt vời, mang lại cảm giác thanh thản và trang nghiêm cho người tham quan.
Nhà thờ Đức Bà có giá trị đặc biệt, đại diện cho sự hòa hợp giữa kiến trúc Đông và Tây, truyền thống và hiện đại. Đây là điểm đến phổ biến của giới trẻ Sài Gòn và du khách quốc tế, là biểu tượng của thành phố Hồ Chí Minh.
Nhiều năm trôi qua, nhà thờ Đức Bà vẫn tồn tại vững chắc, là biểu tượng của Sài Gòn sôi động và niềm tự hào của người dân địa phương.
Thuyết minh về chùa Bái Đính
Việt Nam có nhiều danh lam thắng cảnh đẹp mang giá trị văn hóa tâm linh như chùa Hương, chùa Yên Tử... Trong số đó, chùa Bái Đính - nét đẹp tâm linh giữa cố đô Hoa Lư là điểm đáng chú ý.
Chùa Bái Đính là khu du lịch tâm linh lập nhiều kỷ lục tại Châu Á và Việt Nam, là công trình của doanh nghiệp Xây dựng Xuân Trường, tọa lạc tại cửa ngõ phía tây khu di tích cố đô Hoa Lư, xã Gia Sinh - Gia Viễn - Ninh Bình. Đây được coi là ngôi chùa lớn nhất và nhiều kỷ lục nhất Việt Nam. Quần thể chùa Bái Đính gồm hai khu: khu chùa cổ và khu chùa mới, nằm trên núi Tràng An.
Chùa cổ Bái Đính vẫn giữ được nét đẹp kiến trúc độc đáo sau hàng ngàn năm lịch sử. Quần thể này hội tụ nhiều yếu tố quý giá như đền thờ thần Cao Sơn, đền thờ thánh Nguyễn và giếng ngọc, tạo nên vẻ đẹp lịch sử đặc biệt.
Khu chùa mới được xây dựng từ năm 2003, mang đậm bản sắc truyền thống dân tộc Việt Nam. Kiến trúc nơi đây nổi bật với những hình khối lớn, hoành tráng và sử dụng nguyên liệu chính địa phương.
Lễ hội chùa Bái Đính là dịp để thưởng ngoạn vẻ đẹp kiến trúc và tâm linh của ngôi chùa này, cũng như khám phá những giá trị lịch sử và văn hóa đặc sắc của Việt Nam. Đây là niềm tự hào của người dân cố đô Hoa Lư và toàn thể người Việt.
Thuyết minh về hang động Phong Nha - Kẻ Bàng
“Đệ nhất kì quan Phong Nha” nằm trong hệ thống hang động của dãy núi đá vôi Kẻ Bàng ở miền tây Quảng Bình.
Có hai con đường để đến Phong Nha: đi đường thủy ngược dòng sông Gianh đến sông Gianh gặp sông Sơn, rồi tiếp tục đi theo sông Sơn. Hoặc đi đường bộ theo tỉnh lộ số 2 đến bến sông Sơn (đường dài khoảng 20 cây số). Từ đó, đi thuyền máy mất ba mươi phút để đến cửa hang Phong Nha. Mặc dù sông có tên là “Sơn” nhưng nước lại có màu xanh thẫm và rất trong suốt.
Trái ngược với hang động khô, hang động nước vẫn có một dòng sông chảy suốt ngày đêm... Sông khá sâu và nước rất trong. Điểm thu hút nhất và được du khách ưa chuộng nhất chính là hang động nước.
Để vào hang động nước, du khách phải đi thuyền và mang theo đèn đuốc, vì càng vào sâu bên trong hang thì càng tối. Mặc dù ở một số nơi trong hang đã có hệ thống điện, nhưng để đi suốt 1.500m trong hang vẫn cần đèn đuốc.
Động chính của Phong Nha có tổng cộng mười bốn buồng, được kết nối với nhau thông qua một hành lang phụ dài vài trăm mét. Ở các buồng ngoài, trần thấp hơn mặt nước một chút. Từ buồng thứ tư trở đi, vòm đá của hang cao tới 25 - 40m. Khi đến buồng thứ mười bốn, bạn có thể đi qua các hành lang hẹp để đến các hang lớn bên trong, cùng với các dòng sông ngầm dưới lòng núi đá vôi Kẻ Bàng và khu rừng nguyên sinh 40 hecta, nơi vẫn chứa giữ những điều kỳ bí và hấp dẫn mà con người chưa khám phá hết.
Khi đi thuyền thăm động Phong Nha, bạn sẽ bị ấn tượng và say mê trước vẻ đẹp lộng lẫy, kỳ ảo của nó. Dưới ánh sáng lung linh của đèn đuốc, các khối đá nhũ hiện ra với đủ hình dạng và màu sắc. Có những khối hình con gà, con cóc, hoặc xếp thành đốt trúc đứng trên mặt nước… Còn có những khối hình giống như mâm xôi, cái khánh, hoặc các tiên ông đang ngồi đánh cờ… Sự tài hoa của thiên nhiên đã tạo ra những khối đá như một tác phẩm nghệ thuật không chỉ về hình dáng mà còn về màu sắc, một sắc màu rực rỡ như kim cương không thể diễn tả hết. Trên vách động, còn có những nhánh phong lan xanh mướt. Trong hang, còn có một số bãi cát, bãi đá để thuyền đậu, cho du khách có thể thăm thú, chụp ảnh hoặc thắp hương tại các bàn thờ do người dân địa phương dựng nên từ lâu.
Khi đi dọc theo chiều dài hơn ngàn mét ở phần ngoài của động Phong Nha, du khách sẽ cảm thấy như lạc vào một thế giới khác - thế giới của những cảnh đẹp tuyệt vời. Nơi này vừa hoang sơ, bí ẩn; lại vừa thanh thoát và tràn đầy chất thơ. Âm thanh của dòng nước trong hang động có âm vang riêng, giống như tiếng đàn, tiếng chuông trong những cảnh chùa, đất bụt.
Với vẻ đẹp đặc sắc và độc đáo, động Phong Nha được coi là “kỳ quan động hàng đầu” của Việt Nam.
Thuyết minh về Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hay Lăng Bác, là nơi an nghỉ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khởi công xây dựng vào ngày 2 tháng 9 năm 1973, lăng được đặt tại vị trí của lễ đài cũ giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Ông đã từng chủ trì các cuộc mít tinh lớn.
Lăng đã được khánh thành vào ngày 29 tháng 8 năm 1975. Gồm 3 tầng với chiều cao 21.6 mét, tầng dưới tạo hình bậc thềm tam cấp, tầng giữa là phòng thi hài và các hành lang, cầu thang. Quanh bốn mặt là các hàng cột vuông bằng đá hoa cương, tầng trên cùng là mái hình tam cấp. Ở mặt chính có dòng chữ: 'Chủ tịch Hồ Chí Minh'' bằng đá hồng màu mận chín. Lăng được xây theo kiểu kiến trúc hiện thực - xã hội chủ nghĩa, lấy nguyên bản của Lăng Lê Nin.
Xây trên nền cũ của toà lễ đài giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Ông chủ trì các cuộc mít tinh lớn và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập. Cát từ suối Kim Bôi, đá cuội từ vùng Sơn Dương, Chiên Hoá, Ngòi Thia, Tuyên Quang...; đá xây lăng từ khắp nơi: Đá Nhồi Thanh Hoá, đá Hoa (Chùa Thầy), đá Non Nước...; gỗ từ các miền, như: Cây chò nâu Đền Hùng, hoa ban Điện Biên - Lai Châu, tre Cao Bằng... Hệ thống điện phục vụ chiếu sáng và bảo quản thi hài Hồ Chí Minh do các chuyên gia Liên Xô thực hiện.
Trên đỉnh lăng là chữ 'Chủ tịch Hồ Chí Minh' ghép bằng đá ngọc màu đỏ. Cửa làm từ gỗ quý Tây Nguyên. Tiền sảnh có dòng chữ 'Không có gì quý hơn Độc lập Tự do' và chữ ký của Chủ tịch Hồ Chí Minh được dát bằng vàng. Hai bên cửa là hai cây hoa đại. Trước và sau lăng trồng 79 cây hoa vạn tuế tượng trưng cho 79 năm trong cuộc đời của Ông. Hai bên phía nam và bắc là hai rặng tre, biểu tượng cho Việt Nam. Trước cửa lăng có hai chiến sĩ canh vệ.
Chính giữa lăng là thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt trong hòm kính khung bằng gỗ quý, điêu khắc hoa văn các đám mây, đặt trên một bục đá. Qua lớp kính trong suốt, thi hài Ông trong bộ quần áo ka-ki, dưới chân có đôi dép cao su.
Lăng hình vuông, mỗi cạnh 30m, cửa hướng về phía Đông, hai bên Nam và Bắc có hai lễ đài dài 65m để phục vụ khách trong các dịp lễ lớn. Trước lăng là Quảng trường Ba Đình, có đường dành cho diễu binh, duyệt binh, và một thảm cỏ dài 380m chia thành 240 ô vuông cỏ xanh suốt cả năm. Trước lăng là cột cờ, lá Quốc kỳ được kéo lên vào 6 giờ sáng và hạ xuống vào 9 giờ tối hàng ngày. Thẳng qua sân cỏ là đường Bắc Sơn, có trồng hoa hồng đỏ và hoa đào. Cuối đường Bắc Sơn là tượng đài Liệt Sỹ.
Phía tây của quảng trường là khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, bao gồm Viện bảo tàng Hồ Chí Minh và ngôi nhà sàn nơi Ông sống và làm việc. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh thường được nhiều đoàn khách từ các tỉnh thành và nước ngoài đến thăm.
Mỗi tuần có hơn 15.000 người đến viếng thăm Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Rất nhiều cá nhân và đoàn thể đến thăm lăng vào các ngày lễ và kỷ niệm quan trọng của đất nước. Tại đây, không khí trang nghiêm và sự tôn kính của nhân dân dành cho Người có thể cảm nhận rõ ràng khi vào lăng viếng Bác.
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh mở cửa 5 ngày mỗi tuần, vào buổi sáng thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ bảy và chủ nhật. Trong mùa nóng (1/4 - 31/10): Từ 7h30 đến 10h30; trong mùa lạnh (1/11 - 31/3 năm sau): Từ 8h đến 11h; vào các ngày lễ, thứ bảy và chủ nhật, cửa mở thêm 30 phút. Mỗi năm, lăng đóng cửa để tu bổ vào tháng 10 và tháng 11.
Khách viếng thăm phải tuân thủ các quy định như mặc đồ chỉnh tề, không mang theo máy ảnh, tắt điện thoại di động, không mang các vật liệu gây cháy nổ... nhằm đảm bảo an ninh và trật tự trong lăng.
Khi viếng thăm lăng Bác, lòng ta tràn ngập cảm xúc. Là con cháu Việt Nam, chúng ta cần phải học hỏi tốt để bảo tồn và phát triển đất nước, đáng là “Cháu ngoan Bác Hồ”.
Thuyết minh về làng Tranh Đông Hồ
Làng Tranh Đông Hồ nằm ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Trong nhiều thế hệ, tên Đông Hồ đã trở nên gắn liền với nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của Việt Nam. Dù ngày nay không còn nhiều gia đình chuyên về nghề tranh này, nhưng điều đó khiến cho những gì còn lại trở nên đặc biệt quý giá hơn. Người ta không biết chính xác nghề tranh Đông Hồ bắt nguồn từ bao giờ, nhưng theo các gia phả trong làng, nó ít nhất cũng đã tồn tại từ đời Lê, tức là khoảng 500 năm trước. Gia đình ông Nguyễn Đăng Chế được biết đến là gia đình gắn bó với nghề này nhất, đã có đến 20 đời làm tranh. Trung tâm giao lưu văn hóa tranh dân gian Đông Hồ, do con cháu ông đóng góp, đã tạo ra một không gian văn hóa độc đáo và trở thành điểm đến không thể bỏ qua cho du khách trong và ngoài nước.
Khác với nhiều loại tranh hiện nay, tranh Đông Hồ không phải là nghệ thuật tự do mà thay vào đó, nó được in trên gỗ. Để có những bản in tinh xảo như thế, cần phải có người vẽ mẫu có trình độ nghệ thuật cao. Công đoạn in tranh không quá khó, nhưng đòi hỏi lòng yêu nghệ thuật và tâm hồn nghệ sĩ từ những người thực hiện.
Giấy dùng để in tranh là loại giấy mịn. Trước khi in, giấy được bồi điệp, tạo nên chất liệu riêng biệt của tranh Đông Hồ. Để có được bức tranh đẹp, các màu sử dụng thường được lấy từ thiên nhiên như lá tre, lá tràm, hoa hòe, rễ cây vang... Mặc dù có người đã sử dụng màu và hóa chất hiện đại, sản phẩm thu được thường không có sắc màu tươi sáng như tranh truyền thống và màu sẽ phai nhạt nhanh chóng.
Trong tranh dân gian Đông Hồ, không áp dụng chặt chẽ về cơ chế học, các nguyên lý về ánh sáng hay luật xa gần như tranh hiện đại. Các nghệ sĩ sáng tạo tranh mang nhiều tính ước lệ trong cách bố cục và miêu tả về màu sắc. Tất cả đều sử dụng phong cách vẽ đơn giản để thể hiện, do đó khi xem tranh dân gian thường gặp phần thú vị ở những nét ngây ngô đơn giản nhưng hợp lý hợp tình.
Thuyết minh về thành Cổ Loa
Khu di tích Cổ Loa nằm trên địa phận 3 xã Cổ Loa, Dục Tú và Việt Hùng thuộc huyện Đông Anh (Hà Nội), cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 17km về phía bắc. Khác với các di tích lịch sử khác, Cổ Loa là một quần thể di tích có diện tích trải rộng trên một địa bản rộng lớn, có diện tích bảo tồn gần 500ha. Khu Di tích này được coi là địa điểm văn hóa đặc biệt của thủ đô và cả nước.
Cổ Loa từng là kinh đô của nhà nước Âu Lạc thời kỳ An Dương Vương (thế kỷ III TCN) và của nước Đại Việt thời Ngô Quyền (thế kỷ X). Thành Cổ Loa là một di tích minh chứng còn lại cho đến ngày nay. Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn và cấu trúc độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”.
Cổ Loa có hàng loạt di tích khảo cổ học phản ánh quá trình phát triển liên tục của dân tộc Việt Nam từ thời tiền sử đến thời kỳ văn hóa Đông Sơn, được coi là nền văn minh sông Hồng thời kỳ tiền sử của dân tộc Việt Nam.
Thành Cổ Loa được xây dựng dạng vòng tròn (nên gọi là Loa thành). Theo truyền thống, có đến 9 vòng thành, bên dưới là hào sâu ngập nước cho thuyền bè đi lại. Ngày nay, Cổ Loa còn 3 vòng thành, tổng cộng dài 16km: Vòng ngoài (Thành ngoại) có chu vi 8km, vòng giữa (Thành trung) hình đa giác với chu vi 6,5km và vòng trong (Thành nội, hình chữ nhật) có chu vi 1,6km.
Theo truyền thống, mỗi khi xây thành, cũng xây lũy theo, cả ba vòng thành được bao quanh bằng những con hào. Phía đông của Thành trung là Đầm Cả, với năm con ngòi đưa nước vào Thành trung và Thành nội, tạo vòng khép kín, rất thuận tiện cho việc lập căn cứ bộ binh, thuỷ binh linh hoạt. Thân thành ngày nay cao trung bình 4 - 5m, có nơi cao tới 12m, chân thành rộng khoảng hai, ba chục mét. Trong thời đó, vũ khí chỉ là gươm, giáo và cung tên, nhưng quy mô của Cổ Loa thể hiện sự kiên cố.
Thành Cổ Loa gắn bó với những câu chuyện huyền thoại của dân tộc Việt, về việc vua An Dương Vương xây thành và định đô; về chiếc nỏ thần Kim Quy bắn hạ hàng trăm tên giặc; về câu chuyện bi thương và cảm động của Mị Châu - Trọng Thủy… Từ lâu, ngôi thành này cùng với những nhân vật lịch sử được huyền thoại hoá đã đi vào tiềm thức của người Việt.
Khu vực Thành nội lưu giữ nhiều di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật như khu đền Thượng thờ An Dương Vương, đình Ngự Triều, am thờ Mị Châu và chùa Bảo Sơn.
Trong khu di tích lịch sử Cổ Loa, đền Thượng (đền Thục Phán An Dương Vương) là điểm tham quan đáng chú ý nhất. Đền được xây dựng vào năm 1687, thời vua Lê Hy Tông, trên một quả đồi xưa có cung thất của vua. Trước cửa đền có đôi rồng đá uốn khúc, tay vuốt râu, được chạm trổ tinh xảo, đặc trưng cho nghệ thuật điêu khắc thời Lê.
Cổ Loa hiện nay không chỉ là một di sản văn hóa, mà còn là biểu hiện của sự sáng tạo và kỹ thuật, cũng như văn hóa của người Việt xưa trong cuộc chiến bảo vệ quê hương và chống lại kẻ xâm lăng. Nơi đây cũng là điểm đến lý tưởng cho du khách quốc tế muốn khám phá những giá trị văn hóa và hình ảnh yên bình của một làng quê Bắc Bộ.
Hằng năm vào ngày 6 tháng giêng âm lịch, người dân Cổ Loa tổ chức một lễ hội trọng đại để tưởng nhớ những người đã góp công xây dựng thành phố, đặc biệt là để tôn vinh An Dương Vương - người sáng lập ra triều đại Âu Lạc.
Vì thế, không chỉ những người dân địa phương và du khách trong nước mà còn có nhiều nhà nghiên cứu về hội họa, mỹ thuật từ nước ngoài đến thăm và nghiên cứu nghệ thuật tranh dân gian nổi tiếng của làng Hồ. Điều này cũng là một phương tiện quan trọng để bảo tồn và phát triển nghệ thuật tranh.
Giới thiệu về di tích lịch sử Đền Hùng
Với người Việt Nam, việc đến thăm Đền Hùng là như một hành trình quay về nguồn cội, để tìm lại những dấu vết lịch sử hùng vĩ từ thời Vua Hùng. “Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba/Khắp miền truyền mãi câu ca/Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.” Cụm di tích Đền Hùng nằm trên một ngọn núi cao vĩ đại. Bàn thờ Tổ được đặt trên ngọn núi Nùng (Nghĩa Lĩnh) thuộc thôn cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Núi Nùng cao 175m nổi lên án ngự vùng đồi Phong Châu Bạch Hạc. Đền Hùng bao gồm bốn ngôi đền và một lăng trên núi Nùng. Đi lên từ cổng chính là Đền Hạ, được tin là nơi bà u Cơ sinh ra một trăm trứng nở ra một trăm người con, tạo ra sức mạnh cho dân tộc Việt Nam. Tiếp theo là Đền Trung, nơi các vua Hùng thường bàn việc nước với các Lạc hầu, Lạc tướng và trên đỉnh núi là Đền Thượng với bốn chữ vàng “Nam Việt Triệu Tổ” (Tổ muôn đời nước Việt Nam). Đây là nơi Vua Hùng thờ Thánh Gióng và cầu mưa gió thuận hòa, mùa màng tươi tốt, muôn dân ấm no. Gần Đền Thượng là một ngôi Lăng nhỏ thường gọi là mộ Tổ, mang ý nghĩa tượng trưng. Từ Lăng đi xuống về hướng Đông, dưới chân núi là Đền Gióng, nơi hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa - con của Vua Hùng thứ 18 - trang điểm và soi gương trước khi đi làm nhiệm vụ quan trọng. Vì thế giếng gần đó được gọi là Giếng Ngọc. Hiện nay, giếng ấy nằm bên trong Đền.
Từ Đền Thượng (đỉnh Hùng Sơn), con người có thể nhìn ra mọi hướng, chiêm ngưỡng vẻ đẹp của vùng trung du xanh tươi và những dãy đồi cây xanh mướt, ánh nước lấp lánh của ba con sông. Sự phát triển của các công trình mới và nhà máy đã làm cho cảnh quan trở nên sống động hơn. Trước sự vĩ đại của thiên nhiên, con người trở nên nhỏ bé hơn bao giờ hết. Sự thay đổi của đất đai và con người Phú Thọ đã làm cho khu di tích lịch sử Đền Hùng trở nên thêm phần lung linh. Với dãy Tam Đảo phía Đông và ngọn núi Tản Viên phía Tây, sông Đà, sông Lô, sông Thao hòa vào nhau tạo thành một vẻ đẹp hùng vĩ cho khu di tích. Cố đô Văn Lang, Nghĩa Lĩnh – Việt Trì, là nơi sinh ra những huyền thoại. Với sông, núi, và cây cỏ, khu vực này mang trong mình câu chuyện đẹp đẽ, kết nối với khách du lịch từ khắp nơi. Làng Lúa đã từng là nơi mà Vua Hùng dạy dân cày lúa. Các xã ven sông Lô là nơi Vua Hùng đi săn cùng với các Lang và các Mỵ Nương. Làng Hương Trầm, xã Lâu Thượng, là nơi hoàng tử Lang Liêu làm ra bánh chưng, bánh dày để cúng lễ và chúc thọ Vua Hùng.
Ngã ba sông là nơi mà Vua Hùng thứ 18 đã tổ chức cuộc thi chọn chồng cho công chúa, cũng là nơi diễn ra cuộc thi giữa thần Núi và thần Nước để giành lấy tình yêu của một người đẹp… “Tháng ba nô nức hội đền/Là ngày giỗ Tổ bốn nghìn năm nay”. Tham gia hội Đền Hùng cũng là trở về với nơi mà tổ tiên đã từng gầy dựng, trở về với tuổi thơ trong cõi nôi với lời ru của mẹ u Cơ; là kỷ niệm về tổ tiên trong thời kỳ Vua Hùng, là trở về với nguồn gốc và bản sắc văn hóa của người Việt Nam, cầu mong mọi điều tốt lành đến với tất cả mọi người.
......... Mời các bạn tham khảo chi tiết tại file tải dưới đây.............