Nguyễn Trãi là một nhà lãnh đạo quân sự, chính trị quan trọng của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, ông cũng là một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của dân tộc. Các tác phẩm của ông mang lại nhiều giá trị tư tưởng.
Bình Ngô tuyên bố lớn (chữ Hán: 平吳大誥) được Nguyễn Trãi soạn vào mùa xuân năm 1428, thay thế văn lời của Lê Lợi để tuyên bố về việc chiến thắng trong cuộc kháng chiến với nhà Minh, khẳng định sự tự chủ của quốc gia Đại Việt. Mytour muốn chia sẻ tới các bạn học sinh tài liệu về nhà văn Nguyễn Trãi và tác phẩm Bình Ngô đại tuyên bố. Hãy cùng theo dõi ngay sau đây.
Tuyên bố Bình Ngô đại - Bình Ngô tuyên bố lớn
Bình Ngô tuyên bố lớn - Nguyên bản chữ Hán
平吳大告
代天行化皇上若曰。
蓋聞:
仁義之舉,要在 an dân,
弔伐之師莫先去暴。
惟,我 đại Việt chi quốc,
實為 văn hiến chi bang。
山川 chi phong dãnh khí vi địch,
南北 chi phong tục diệc dị.
自趙丁李陳 chi triệu tạo ngã quốc,
與漢唐宋元 mà các đế nhất phương.
雖強弱 thì thời hữu bất đồng
mà hào kiệt thế vị thường phạm.
故劉龔貪 công dĩ thủy bại,
mà趙禼 hảo đại dĩ thốt vong.
唆都 đã cầm ư Hàm Tử quan,
烏馬 hựu tửu ư Bạch Đăng hải.
嵇諸 vãng cổ,
quyết hữu minh chứng.
頃因 hỗ chính chi phàn khả,
至使 nhân tâm chi oán phản.
狂明 thích tập, doạn dĩ độc ngã dân;
惡黨 hoài gián, cộng dĩ mại ngã quốc.
焮蒼 sinh vu ngược dãng,
ngạn thiết tử ư hoạ khêng.
欺天 vọng minh, quỉ kế khải thiên vạn trạng;
liên binh kết hình ninh ác đãi nhị mươi niên.
敗義 thương nhân, can khôn kỳ hốt tiếp;
trọng khoa hậu lãm, sơn tạch mễ hữu tiết vị.
開 kim trường tại hài manh lam chủ mạo lân trạng sa,
tải minh châu tứ xúc giao long dã canh yêu sà.
nháo dân thiết huyền lộc chi hám cảnh,
tiễn vật chức thúy cầm chi vịnh lạc.
khôn trùng thực mộc kỳ bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
canh quả điện liên cựu bất hề hứa dĩ an kỳ sở.
tuần sinh linh chi huyết dĩ nhuyễn kiệt tà mạ;
cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi tế đình.
châu lị trí chi chinh ôn khốn,
lộ am trần chi chủ dục kiếm không.
quyết Đông Hải chi thủ bất túc dĩ trược kỳ ô,
tinh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
thần nhân chi sở toàn phẫn,
thiên địa chi sở bất dung.
Tôi:
Quyết tâm trên núi lam,
trú ngụ hoang dã.
Nghĩ về thù địch của thế giới, có thể không chịu đựng chung,
thề không sinh sống cùng kẻ phản quốc.
Người đau đớn, đau khổ đã trải qua mười nhiều năm,
người từng hy sinh và chịu đựng không chỉ một ngày.
Phấn đấu quên đi ăn uống, lúc nào cũng tìm hiểu sách vở chiến thuật,
so sánh cổ điển với hiện đại, chi tiết nghiên cứu lý do sự thịnh vượng và suy thoái.
Hoài bão quay lại, không quên cả khi ngủ cũng không quên.
Khi kí hiệu của công lý mới bắt đầu, thì thế lực phản đối cũng đang mạnh mẽ.
Dù có:
Người tài giống như lá thu,
Người tài xuất chúng như ngôi sao sáng sớm.
Người chạy trước sau lại không có đủ người,
Người lập kế hoạch trong triều chỉ có ít sự giúp đỡ.
Đặc biệt là với ý niệm cứu dân, luôn uất ức và muốn tiến về phía Đông;
Vì thế trong việc chờ đợi người tài, luôn luôn mải mê mà không có gì.
Tuy nhiên, dù có:
Kết quả của công việc của người khác như mong nhưng xa vời như ngắm biển;
Tự thân của mình rất chân thành trong việc cứu người đang chìm đắm.
Tiếc nuối bọn xâm lược vẫn chưa tiêu diệt,
Nghĩ về sự kiện bất hạnh của quốc gia.
Mất hết thức ăn tại Linh Sơn trong mười ngày,
Không có một đoàn quân nào ở quận Khuê.
Vì trời muốn làm khó ta để giảm nhẹ trách nhiệm của mình,
Nên chúng tôi ngày càng phấn đấu để vượt qua khó khăn.
Giương cờ làm hiệu chỉ, kẻ tầm thường tụ họp thành đội quân,
Đều đóng góp rượu mời những người dũng sĩ, cha con một lòng trong việc quân sự.
Sử dụng sức yếu để chế ngự sức mạnh, thường tạo sự không phòng vệ của kẻ địch;
Dùng ít người để đấu với đông người thường dựng mưu kế đặt bẫy để tấn công bất ngờ.
Cuối cùng có thể:
Thắng lợi bằng lòng trung đạo và đức tính nhân từ,
Thay đổi sức mạnh bằng lòng nhân từ và đức tính nhân từ.
Sức mạnh của thời tiết làm phép thuật,
Cành tre của trào nước phá vụt bay tro bụi.
Tinh thần của quân đội tăng lên,
Tiếng vang của quân đội được phục hồi.
Chén Thông Sơn nghe thấy gió đến mà mất hồn;
Đoạn trần Thanh Phong chờ đến nhưng không chút hi vọng.
Chúng tôi tận dụng chiến thắng để tiến về phía Tây thủ đô đã thuộc về chúng tôi;
Chọn lựa quân đội tiến về, phục hồi lãnh thổ cũ của Đông đô.
Máu của cầu Ninh cũng đã thành sông, chảy khắp mười ngàn dặm;
Xác chôn của bản Sốc chồng chất trên đồng ruộng, mùi tanh nồng ngàn năm.
Kẻ tay sai trung ương của Trần Quách, đã cắt đầu chúng;
Kẻ âm mưu của Lý Lương, đã phản bội chúng.
Vương Thông lý giả hỗn loạn và đốt cháy càng ngày càng cháy,
Mã An cứu đấu và giận dữ càng ngày càng giận.
Họ cảm thấy kiến thức đã cạn kiệt và sức lực cạn kiệt, buộc phải đầu hàng;
Chúng tôi âm mưu tấn công và lòng dũng cảm, không cần chiến đấu đã chấp nhận.
Chúng tôi nghĩ rằng họ sẽ thay đổi suy nghĩ và suy luận,
Nhưng họ lại tiếp tục gây ra tội lỗi để nhanh chóng chịu hậu quả.
Giữa ý kiến của chính mình để đổ lỗi cho người khác,
Lòng tham của một thời để trở thành lý do cho cười chế ở khắp nơi.
Sau đó, Thần xuân đức của Tiểu Thiên, không hề mệt mỏi;
Vào lúc đó, Thần xuân đức của Tướng Mã, để cứu vụ cháy.
Ngày mồng chín tháng chín năm ấp tân, Lưu Thăng tiến quân vẫn còn ở Khâu Ôn mà tiến về, trong tháng mười năm nay, Mộc Thanh cũng đi đường khác từ vùng Tây Nam về.
Trước đó chúng tôi đã chọn lựa quân đội để chặn đường và hạ gục sức mạnh của họ,
Sau đó lại điều quân đội khác để cắt đứt lối đi và cắt đứt nguồn lương thực của họ.
Ngày mười tám của tháng này, Lưu Thăng đã bị quân của chúng tôi tấn công và kẻ giết người trong trận chiến tại đồng ngọc tản;
Ngày hai mươi của tháng này, Lưu Thăng đã bị quân của chúng tôi đánh bại, xác chết trên núi ngựa cưỡi.
Ngày hai mươi lăm, bá đạo Thăng Bảo Định bị quân địch chiến đấu và thiếu hại,
Ngày hai mươi tám, thư ký Lý Khánh Kế tính khó khăn và cắt đầu.
Chúng tôi đã tiến lên và giải thoát mình,
Chúng lại quay súng vào nhau.
Sau đó, chúng tôi tăng cường binh lính từ bốn phương để bao vây,
Dự kiến sẽ tiêu diệt vào giữa tháng mười.
Này, chúng tôi đã chọn những người dũng mãnh nhất,
Phân công những kẻ hành hạ nhất.
Uống cả một con voi mà sông Hồng cạn,
Mài dao mà núi đá đều rung.
Một tiếng gõ và cá voi bị cắt ra,
Một lần nữa và chim bay tan tác.
Làm cho muỗi sợ hãi và đổ vỡ đập,
Đánh thức gió mạnh và quét sạch lá.
Đô đốc Quy Tụ đi bằng đầu gối để gửi thư,
Thư ký Hoàng Phúc bị buộc mặt để bị bắt.
Xác chết bị chặn đường và con đường sông,
Máu chiến tranh đỏ màu trên sông trải.
Mây gió làm thay đổi màu sắc,
Mặt trời mặt trăng u ám không có ánh sáng.
Quân đội ở Yunnan bị chặn lại bởi chúng tôi tại Lê Hoa, do lo sợ và giọng điệu ảo mượt mà đã làm vỡ phòng ngự;
Quân của Mộc Thanh nghe tin về thất bại của Lưu Thăng tại Khúc Chấn, đã phản bội và chạy trốn chỉ có thể cứu mạng.
Máu ở suối Lãnh Cao đều trôi, nước sông Hồng rên rỉ;
Xác chôn ở tòa nhà Thanh đỏ chất đống, cỏ hoang đã ươm đỏ.
Hai lực lượng cứu viện không quay lại mà thất bại,
Các thành phố khốn khó cũng sẽ gỡ bỏ áo giáp để đầu hàng.
Kẻ lãnh đạo của kẻ xâm lược đã bị bắt, họ đã vứt bỏ phần đuôi của con hổ đói để nhận sự thương hại;
Quân đội của Thần vĩnh cửu, chúng tôi cũng đã hiểu được lòng hiếu sinh của Chúa.
Tham mưu quyền Thái, Quan Mã, đã trước đó cung cấp năm trăm tàu, sau đó đi qua biển mà linh hồn vẫn bay nơi;
Tổng quân Vương Thông, thư ký Mã An, đã sau đó cung cấp vài ngàn con ngựa, đã trở về quê hương nhưng sợ hãi và đau đớn.
Họ sợ chết và tham sống, nhưng lại thật lòng cải tạo;
Chúng tôi coi trọng quân đội là hàng đầu, và muốn người dân được nghỉ ngơi. Không chỉ là kế hoạch cực kỳ sâu xa,
Mà còn chưa từng thấy hoặc nghe thấy ở quá khứ và hiện tại.
Đền cúng các vị thần linh của trời đất,
Thay đổi quan điểm của núi sông.
Trời đất đã hồi sinh sau khi bị phủ nhưng lại được thịnh vượng,
Mặt trời mặt trăng đã trở nên sáng sủa sau khi bị tối tăm.
Mở ra nền tảng hòa bình vĩnh cửu cho muôn đời,
Loại bỏ sự nhục nhã vô tận của trời đất.
Điều này là do sự giúp đỡ của linh hồn của trời đất tổ tiên,
Và sự ủng hộ âm thầm của họ!
Vui thôi!
Chiến thắng lớn lên,
Đến mức không còn gì để lo lắng;
Bốn bể trường kỳ trong sạch mãi mãi,
Tuyên bố sự tân sinh.
Thông báo khắp nơi,
Mọi người đều biết.
Phiên âm Bình Ngô đại cáo
Văn của vua:
Đại thiên hành hóa hoàng thượng viết.
Cái văn:
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân,
Điếu phạt chi sư mạc tiên khử bạo.
Duy, ngã Đại Việt chi quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam bắc chi phong tục diệc dị.
Tự Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc,
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.
Tuy cường nhược thì hữu bất đồng,
Nhi hào kiệt thế vị thường phạp.
Cố Lưu Cung tham công dĩ thủ bại,
Nhi Triệu Tiết hiếu đại dĩ xúc vong.
Toa Đô ký cầm ư Hàm Tử quan,
Ô Mã hựu ế ư Bạch Đằng hải.
Kê chư vãng cổ,
Quyết hữu minh trưng.
Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà.
Chí sử nhân tâm chi oán bạn.
Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân;
Ác đảng hoài gian, cánh dĩ mại ngã quốc.
Hân thương sinh ư ngược diệm,
Hãm xích tử ư hoạ khanh.
Khi thiên võng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng;
Liên binh kết hấn nẫm ác đãi nhị thập niên.
Bại nghĩa thương nhân, càn khôn kỷ hồ dục tức;
Trọng khoa hậu liễm, sơn trạch mi hữu kiết di.
Khai kim trường tái mạo lam chướng nhi phủ sơn đào sa,
Thái minh châu tắc xúc giao long nhi căng yêu thộn hải.
Nhiễu dân thiết huyền lộc chi hãm tịnh,
Điển vật chức thuý cầm chi võng la.
Côn trùng thảo mộc giai bất đắc dĩ toại kỳ sinh,
Quan quả điên liên câu bất hoạch dĩ an kỳ sở.
Tuấn sinh linh chi huyết dĩ nhuận kiệt hiệt chi vẫn nha;
Cực thổ mộc chi công dĩ sùng công tư chi giải vũ.
Châu lý chi chinh dao trọng khốn,
Lư diêm chi trữ trục giai không.
Quyết Đông Hải chi thuỷ bất túc dĩ trạc kỳ ô,
Khánh Nam Sơn chi trúc bất túc dĩ thư kỳ ác.
Thần dân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
Dư:
Phân tích Lam Sơn,
Thê thân hoang dã.
Niệm thế thù khởi khả cộng đới,
Thệ nghịch tặc nan dữ câu sinh.
Thống tâm tật thủ giả thuỳ thập dư niên,
Thường đảm ngọa tân giả cái phi nhất nhật.
Phát phẫn vong thực, mỗi nghiên đàm thao lược chi thư,
Tức cổ nghiệm kim, tế suy cứu hưng vong chi lý.
Đồ hồi chi chí,
Ngộ mị bất vong.
Đương nghĩa kỳ sơ khởi chi thì,
Chính tặc thế phương trương chi nhật.
Nại dĩ:
Nhân tài thu diệp,
Tuấn kiệt thần tinh.
Bôn tẩu tiên hậu giả ký phạp kỳ nhân,
Mưu mô duy ác giả hựu quả kỳ trợ.
Đặc dĩ cứu dân chi niệm, mỗi uất uất nhi dục đông;
Cố ư đãi hiền chi xa, thường cấp cấp dĩ hư tả.
Nhưng quý kỳ: Mưu sự hiệu quả của người có ý chí mạnh mẽ, ý nghĩa lớn lao, nhưng sự thành công thường không dễ dàng. Bất lực trước những kẻ ác, lòng trung thành với quốc gia là điều quan trọng nhất. Sự thật về ngọn núi Linh Sơn là biểu tượng của sự kiên nhẫn, và tinh thần vô cùng bền bỉ của người dân ở vùng cao. Mong muốn của bầu trời là thách thức khó khăn, nhưng chúng ta phải vượt qua để thực hiện những ý định cao cả. Mối quan hệ giữa các vị lãnh đạo và nhân dân là yếu tố then chốt trong việc xây dựng một cộng đồng đoàn kết. Thông qua sự yếu đuối và sự mạnh mẽ, chúng ta có thể đối mặt với mọi thách thức mà không gặp trở ngại; bằng cách đó, chúng ta có thể chiến thắng mọi đối thủ và trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết.
Khả năng lãnh đạo: Với lòng trung thành và ý chí kiên định, chúng ta có thể đánh bại mọi thảm họa lớn lao. Sự quyết tâm và can đảm là điều kiện tiên quyết để giữ vững chính nghĩa và đối mặt với sự nguy hiểm. Bằng cách hình thành một cộng đồng đoàn kết, chúng ta có thể khẳng định quyền lực và tiến bộ của quân đội. Sức mạnh của văn hóa và tri thức là chìa khóa cho sự phát triển bền vững. Trong tình thế chiến thắng, chúng ta cần phải kiên nhẫn và tự tin, chứ không phải là sự kiêu căng và tự mãn. Mỗi chiến sĩ đều cần phải có tinh thần đoàn kết và sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc.
Oh là là! Một lời tuyên bố quan trọng nhất, không có ranh giới cho sự thành công. Bốn phương không gian mãi mãi thanh tịnh, khẳng định sức mạnh của sự mới mẻ.
Một lời tuyên bố đáng kể, dựa trên tri thức và hiểu biết sâu sắc.
Phiên bản dịch thơ của Bình Ngô Đại Cáo (dịch bởi Bùi Kỉ)
Nghe nói: Tôn trọng nhân quả là chìa khóa để duy trì hòa bình trong xã hội; việc thưởng phạt công bằng giúp loại bỏ sự tàn ác. Lịch sử của Đại Việt đã chứng minh sự ổn định của nền văn minh từ thời xưa, với những giá trị văn hóa và truyền thống đặc biệt. Mỗi thời đại đã có những nhân vật anh hùng của riêng mình, biểu tượng cho sức mạnh và lòng quyết tâm. Đó là lý do vì sao: Các nhà lãnh đạo cần phải thận trọng trong việc quyết định quân sự; việc ưa thích thể hiện sức mạnh có thể dẫn đến thất bại. Cần phải học từ quá khứ và giữ chặt những bài học quý báu đã ghi chép lại.
Gần đây: Gia đình Hồ gây ra nhiều phiền toái và lo lắng cho dân chúng; dưới thời Minh, sự bạo lực và tham nhũng gây ra nhiều rắc rối. Những kẻ gian ác vẫn tiếp tục bán nước để đạt lợi ích cá nhân. Dân làng bị bỏng trên ngọn lửa của cuộc chiến tranh, và nhiều người phải chịu đựng những điều tồi tệ. Những kế hoạch dối trá đã gây ra nhiều thù hận và oán trách trong nhiều thập kỷ. Sự phá hủy đạo đức đã làm tan nát cả đất trời. Thiếu thu nhập và gánh nặng thuế làm cho cuộc sống trở nên khó khăn hơn. Những người bị ép buộc làm công việc cực nhọc không thể chịu đựng được nữa. Những hành động độc ác đã làm nhiễm bẩn cả nước Đông Hải. Vậy thì, liệu trời đất có dung tha cho những hành động này không? Ai có thể tin rằng nhân dân chịu đựng được?
Chúng ta: Núi Lam Sơn là biểu tượng của sự kiên trì và ý chí vượt qua mọi khó khăn. Chúng ta phải chiến đấu không mệt mỏi để bảo vệ tổ quốc khỏi kẻ thù. Sự hiểu biết và ý thức về trách nhiệm là yếu tố quan trọng để vượt qua mọi thử thách. Chúng ta không thể quên những nghi ngờ và lo lắng, nhưng chúng ta cũng không thể ngừng hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn. Trong thời kỳ khó khăn, chúng ta cần phải đoàn kết và sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc. Chỉ thông qua sự đoàn kết và tinh thần đồng lòng, chúng ta mới có thể vượt qua mọi thách thức.
Nguyễn Trãi, với bút danh Ức Trai, sinh năm 1380 và qua đời năm 1442, là một nhà văn lớn của dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Trãi có quê ở làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang, nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Cuộc đời của ông là một hành trình dày công và trí tuệ, để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử văn học Việt Nam.
Văn hào tài danh này đã để lại di sản vô giá trong văn chương và tư tưởng dân tộc.
Những tác phẩm của Nguyễn Trãi không chỉ là niềm tự hào của dân tộc mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho thế hệ sau.
- Sinh ra với tên Nguyễn Ứng Long, sau đổi thành Nguyễn Phi Khanh, ông đã từng là một học sinh nghèo học giỏi và đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) trong thời kỳ Trần.
- Trải qua những bi thương từ thuở nhỏ, Nguyễn Trãi đã mất mẹ khi mới năm tuổi và ông ngoại qua đời khi mười tuổi.
- Năm 1400, ông thi đỗ cử nhân Thái học, bắt đầu sự nghiệp làm quan dưới thời nhà Hồ.
- Năm 1407, bị giặc Minh bắt sang Trung Quốc, Nguyễn Phi Khanh (hay Nguyễn Trãi) nhớ lời cha để trả nợ nước, thù giặc.
- Sau khi thoát khỏi giam cầm của giặc Minh, ông tham gia vào nghĩa quân Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của vua Lê Lợi, góp phần quan trọng vào chiến thắng chung của cuộc khởi nghĩa.
- Nguyễn Trãi, một bậc lãnh đạo quân sự và chính trị kiệt xuất của dân tộc Việt Nam, cũng là một nhà văn, nhà thơ lỗi lạc của quê hương.
- Ông đóng vai trò quan trọng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, cùng với vua Lê Lợi, đánh bại quân xâm lược để đem lại tự do cho dân tộc.
- Tuy nhiên, cuộc đời của ông kết thúc đầy bi thảm trong vụ án “Lệ Chi Viên” năm 1442, để lại dấu son khó quên trong lịch sử.
- Năm 1980, UNESCO đã chính thức công nhận Nguyễn Trãi là Danh nhân văn hóa thế giới, góp phần tôn vinh văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế.
Sự nghiệp của Nguyễn Trãi là hành trình vĩ đại, ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng dân tộc Việt Nam.
- Nguyễn Trãi được biết đến là một nhà văn chính trị tài năng với những tác phẩm vĩ đại như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, và các chiếu biểu viết dưới thời Lê, thể hiện tư tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước thương dân.
- Là một nhà thơ sâu sắc và trữ tình, Nguyễn Trãi đã ghi lại hình ảnh của những anh hùng vĩ đại cũng như cuộc sống đời thường trong các tác phẩm Ức trai thi tập và Quốc âm thi tập.
Giới thiệu về tác phẩm Đại cáo Bình Ngô
- Đây là một loại văn bản nghị luận cổ được sử dụng bởi các vua chúa hoặc lãnh đạo để trình bày ý kiến hoặc công bố kết quả của một công việc quan trọng.
- Cáo Bình Ngô là một trong những tác phẩm đáng chú ý của Nguyễn Trãi, thể hiện sự tài năng và tầm nhìn của ông trong việc thể hiện và bảo vệ lợi ích của dân tộc.
- Cáo thường được viết bằng văn biên ngẫu, không gò bó về hình thức, thường có đối và không đối, câu dài ngắn linh hoạt.
- Là một thể loại văn có tính chất hùng biện, lời lẽ sắc bén và đầy uy nghi.
- Bài đại cáo thường được viết theo lối văn biên ngẫu, sử dụng thể tứ lục với mỗi cặp câu gồm 10 chữ, ngắt nhịp 4/6.
Hoàn cảnh sáng tác của Nguyễn Trãi
- Sau khi quân ta đánh bại giặc và làm tan rã 15 vạn quân của đối phương, Vương Thông buộc phải chấp nhận thỏa hiệp và rút quân về nước.
- “Bình Ngô đại cáo” được soạn thảo bởi Nguyễn Trãi theo mệnh lệnh của vị vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) sau chiến thắng trước quân Minh, và được công bố vào ngày 17 tháng chạp năm Đinh Mùi (1428).
- Bài cáo này được xem như một biểu Tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam thời điểm đó.
Cấu trúc của tác phẩm
Gồm 4 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “Chứng cớ còn ghi”: xác nhận ý chí nhân nghĩa của dân tộc Đại Việt.
- Phần 2. Tiếp theo đến “Trời đất chẳng dung tha”: lên án tội ác của quân Minh.
- Phần 3. Tiếp theo đến “Cũng là chưa thấy xưa nay”: tóm tắt diễn biến của cuộc khởi nghĩa.
- Phần 4. Phần còn lại: tuyên bố độc lập.
Ý nghĩa của tiêu đề
- Đại cáo Bình Ngô (đại: lớn, rộng lớn; cáo: báo cáo; tuyên bố; bình: sự bình ổn; Ngô: giặc Ngô).
- Tiêu đề “Đại cáo Bình Ngô” mang ý nghĩa là một tuyên bố lớn về việc đảm bảo sự bình ổn và đánh bại giặc Ngô.
=> Tiêu đề này tổng quát hóa nội dung của toàn bộ tác phẩm.
Nội dung chính
Đại cáo Bình Ngô là một bản Tuyên ngôn độc lập, mục đích là tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược và ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Nghệ thuật và phong cách
Nghệ thuật chính luận tài tình, cảm hứng thơ sâu sắc.
Mở bài và kết bài
- Mở bài: Nguyễn Trãi, một nhà lãnh đạo quân sự và chính trị kiệt xuất của dân tộc Việt Nam, cũng là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Tác phẩm đáng chú ý nhất của ông là Đại cáo Bình Ngô, được soạn thảo sau chiến thắng trước quân Minh và công bố vào ngày 17 tháng chạp năm Đinh Mùi (1428). Đây là một tuyên ngôn độc lập, với mục đích tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược và ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
- Kết bài: Bình Ngô đại cáo mang trong mình những giá trị vô cùng quan trọng không chỉ về mặt lịch sử mà còn về mặt văn học. Tác phẩm được xem như là một Tuyên ngôn Độc lập, với mục đích là tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược và khen ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
III. Phân tích nội dung Bình Ngô đại cáo
(1) Mở đầu
Giới thiệu về tác phẩm Bình Ngô đại cáo.
(2) Thân bài
a. Triết lý nhân nghĩa
- Ý nghĩa của 'nhân nghĩa' trong đời sống: là khái niệm tư tưởng của Nho giáo về mối quan hệ giữa con người, dựa trên tình thương và đạo lý.
- Quan điểm của Nguyễn Trãi về 'nhân nghĩa'
- Tiếp nhận triết lý của Nho giáo là 'an dân': đảm bảo cuộc sống của nhân dân được bình yên và hạnh phúc.
- Triển khai tư duy mới là 'trừ bạo': diệt trừ bạo tàn, đánh đuổi kẻ xâm lược.
=> Triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã khẳng định tính chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tạo ra nền tảng vững chắc cho sự thành công của nghĩa quân Lam Sơn.
- Triết lý nhân nghĩa kết hợp với lý tưởng về độc lập dân tộc: Sự độc lập của dân tộc Việt Nam được thể hiện qua nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ riêng biệt, văn hóa đa dạng Bắc Nam, và lịch sử dày đặc từ triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần. Các thuật ngữ như “từ xưa, đã lâu, từ xưa đến nay, từ xưa tới giờ” làm nổi bật sự tồn tại bền vững của Đại Việt.
=> Việc khẳng định dân tộc Đại Việt là một quốc gia độc lập là chân lý không thể phủ nhận.
- Thái độ của tác giả:
- So sánh các triều đại của Đại Việt với các triều đại của Trung Hoa.
- Đặt các vị vua của Đại Việt với danh hiệu “đế”: Truyền thống xưng vua của hoàng đế phương Bắc là Vương, việc xưng đế không chỉ là về triều đại mà còn là về tinh thần. Thể hiện ý thức cao cả về chủ quyền độc lập của tác giả.
- Sử dụng phong cách liệt kê, chỉ ra những hậu quả của những kẻ chống lại lẽ phải: Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã... Đây là cách cảnh báo mạnh mẽ, cũng như thể hiện lòng tự hào về những chiến công của nhân dân Đại Việt.
b. Kết án tội ác của quân Minh
- Tội ác với quê hương: Cụm từ “nhân, thừa cơ” đề cập đến sự lợi dụng, mưu mẹo của quân Minh, chúng áp dụng thủ đoạn “lợi dụng Trần, tiêu diệt Hồ” để tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược nước ta.
=> Tiết lộ bí mật của âm mưu xâm lược, cướp đất của kẻ thù giặc Minh.
- Tội ác với nhân dân:
- Tiến hành khủng bố, tàn sát người dân vô tội: Lò nung dân thường trên lửa đỏ bỏng rát, chôn con thơ dưới lớp đất âm u, lừa dối dân chúng...
- Áp đặt thuế nặng, cướp bóc tài nguyên, sản vật của nước ta: Thu thuế trói buộc không chịu nổi
- Làm hại môi trường, phá hủy sự sống: Phá hủy trời đất,
- Đàn áp sức lao động, phá hoại hoạt động sản xuất: Người bị ép xuống biển với gánh lưng gù mò kiếm ngọc…, người bị đẩy vào núi để đào cát tìm vàng…
=> Sử dụng kỹ thuật liệt kê để chỉ trích những tội ác tàn bạo của quân Minh. Đồng thời, vẽ ra hình ảnh bi thương, đau đớn, thương tâm của nhân dân. Qua đó, thể hiện lòng thương xót, đau buồn, và lòng căm hận đối với kẻ thù của tác giả.
- Sự căm thù quyết liệt của nhân dân lộ rõ:
- Sử dụng hình ảnh tuyệt vời của thiên nhiên như “trúc Nam Sơn không đủ để ghi hết tội ác, nước Đông Hải không đủ để rửa sạch mùi tanh” để nêu bật tội ác của quân Minh.
- Với câu hỏi nhẹ nhàng “lẽ nào...chịu được”: Không ai có thể chấp nhận được tội ác của quân Minh.
=> Lời cáo buộc mạnh mẽ, không khoan nhượng về tội ác của quân Minh xâm lược.
c. Tóm tắt sơ lược về diễn biến của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
* Vẽ nên hình ảnh của vị anh hùng Lê Lợi - một tướng lĩnh tài ba:
- Gốc gác sinh thành: là người nông dân mặc áo vải, “trên đất hoang vu mình tựa”.
- Lựa chọn nơi đây làm nơi khởi nghĩa: “Núi Lam Sơn reo gọi nghĩa cử”.
- Tính cách:
- Nổi lên lòng căm hận kẻ thù sâu đậm, bốc lửa: “Nghĩ về sự thù lớn như trời cao, căm ghét giặc ác chẳng muốn sống…”
- Mang trong lòng những lý tưởng, hoài bão vĩ đại, biết trân trọng và sử dụng những tài năng: “Trái tim giữ nước...khẳng định bên phải”.
- Quyết tâm cao cả để thực hiện những ý nghĩa cao cả: “Buồn bực đau lòng...nếm chua cay...nghiên cứu kỹ lưỡng”.
=> Hình ảnh của Lê Lợi hiện ra vừa là người bình thường trong cuộc sống hàng ngày, vừa là anh hùng của cuộc khởi nghĩa. Lê Lợi là biểu tượng tinh thần của cuộc nổi dậy.
* Bắt đầu của cuộc nổi dậy Lam Sơn.
- Giai đoạn ban đầu của cuộc kháng chiến:
- Thiếu vật liệu quân sự, thức ăn: chỉ còn đủ thức ăn cho vài tuần, không có đội quân nào.
- Tinh thần của binh lính và dân chúng: Quyết tâm và kiên định (Chúng ta kiên định vượt qua khó khăn), đoàn kết và đồng lòng (sử dụng hai đầu dựng cần cẩu, hòa hợp nước sông).
=> Một giai đoạn mở đầu đầy thách thức và khó khăn, nhưng với tinh thần đoàn kết, quân và dân đã quyết tâm vượt qua.
- Giai đoạn phản công và giành chiến thắng:
- Những chiến thắng ban đầu: Trận Bạch Đằng, miền Trà Lân ghi dấu ấn sâu sắc trong lịch sử, tạo đà cho quân nghĩa và làm kinh ngạc kẻ thù “sấm sét vang chớp, trúc chẻ bay tro”.
- Quân nghĩa liên tiếp giành nhiều chiến thắng lớn, tiêu diệt kẻ thù ở những thành trì mà chúng chiếm đóng “Trần Trí, Sơn Thọ...bỏ mạng” và tiêu diệt lực lượng hậu quả của kẻ thù “Đinh Mùi...tự vẫn”.
=> Không khí chiến trường náo nhiệt, đầy máu lửa với những chiến thắng liên tục của quân ta cùng với sự thất bại nhục nhã, xấu hổ của địch.
- Kết cục của quân Minh:
- Thất bại xấu hổ: “tàn phá nội bộ, lưu danh muôn đời, đầu bêu, mang bỏ...”.
- Các tướng quân tham sống sợ chết nài nỉ xin hàng.
- Bộ đội mất lãnh đạo: “Thượng thư Hoàng Phúc...xin cứu mạng”
- Khí thế hùng mạnh và cách hành xử của quân dân ta:
- “Gươm mài núi đá cũng cạn, voi uống nước sông cũng khô, một trận đánh...”: khen ngợi sức mạnh mạnh mẽ, vững chắc của quân đội ta.
- “Thần vũ không thể hủy diệt...nghỉ ngơi”: chính sách nhân nghĩa đối với kẻ thù. Đây là biện pháp ứng xử không chỉ nhân từ mà còn khôn khéo của quân đội Lam Sơn, làm nổi bật tính công bằng của quân đội và là bước chuẩn bị cho chính sách ngoại giao sau này.
=> Niềm tự hào của tác giả.
d. Tuyên ngôn độc lập
- Ước mong cho tương lai của đất nước: “xã hội từ đây sẽ mạnh mẽ, đất nước từ đây sẽ phồn thịnh, hòa bình ổn định”, các biểu tượng của vũ trụ “bầu trời, mặt trăng, hàng nghìn ngôi sao rực sáng”
=> Đất nước, vũ trụ đang tiến triển theo hướng sáng sủa, tươi đẹp hơn. Điều này phản ánh niềm tin, hy vọng vào tương lai tươi sáng và phồn thịnh của đất nước.
(3) Kết luận
Xác nhận giá trị về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Bình Ngô đại cáo.