Chí Phèo là một câu chuyện ngắn xuất sắc của Nam Cao, nó phản ánh một phần của xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng, với những nhân vật nông dân lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa

Hôm nay, Mytour xin giới thiệu tới các bạn tài liệu về nhà văn Nam Cao và truyện ngắn Chí Phèo. Hãy cùng tham khảo nhé
I. Giới thiệu về nhà văn Nam Cao
- Nam Cao (1917 - 1951), tên thật là Trần Hữu Tri.
- Sinh ra tại làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân (hiện nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam.
- Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực hàng đầu với các tác phẩm viết về hai chủ đề chính: cuộc sống của nông dân nghèo bị áp đặt và cuộc sống khó khăn của người trí thức, đấu tranh với khó khăn trong xã hội xưa.
- Sau Cách mạng, Nam Cao tích cực sáng tác để đóng góp vào cuộc chiến đấu giành độc lập của dân tộc.
- Ông đã hi sinh trong quá trình hoạt động ở phía sau địch.
- Các tác phẩm chính:
- Truyện ngắn: Chí Phèo (1941), Giăng sáng (1942), Đời thừa (1943), Một đám cưới (1944), Đôi mắt (1948)
- Tiểu thuyết: Sống mòn (1944)
- Thể loại khác: Nhật kí ở rừng (1948), kí sự Chuyện biên giới (1951)...
II. Giới thiệu truyện ngắn Chí Phèo
1. Bối cảnh sáng tác
Dựa vào những thực tế và câu chuyện có thật từ làng quê Đại Hoàng, nơi mà Nam Cao sinh sống, ông đã bức xúc trước cảnh tượng khắc nghiệt của xã hội và viết nên truyện ngắn Chí Phèo vào tháng 2 năm 1941.
2. Tóm tắt
Truyện ngắn “Chí Phèo” kể về nhân vật chính là Chí Phèo - một đứa trẻ mồ côi được bỏ rơi tại một lò gạch xa lạ. Sau này, hắn được những người trong làng nuôi dưỡng. Chí Phèo lớn lên và trở thành một người canh tác cho gia đình Lý Kiến. Tuy nhiên, do sự ghen tuông của Lý Kiến, Chí Phèo bị giam vào tù. Sau 7 năm, khi trở về làng, Chí Phèo đã thay đổi hoàn toàn và trở thành một tay sai của Bá Kiến. Hắn trở thành một kẻ ác quỷ trong làng Vũ Đại, gây ra nhiều vấn đề cho cộng đồng. Tình yêu với Thị Nở đã làm cho Chí Phèo muốn thay đổi, nhưng xã hội và mối quan hệ với Thị Nở đã ngăn cản hắn. Cuối cùng, tuyệt vọng, Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát. Nghe tin tức này, Thị Nở đã nhớ về quá khứ và suy tư về một tương lai không có hạnh phúc.
3. Cấu trúc
Bao gồm 3 phần:
- Phần 1. Từ khi Chí Phèo xuất hiện cùng tiếng chửi cho đến khi “cả làng Vũ Đại cũng không ai biết”:
- Phần 2. Tiếp theo đến “không bảo người nhà đun nước mau lên”: Chí Phèo mất hết nhân tính.
- Phần 3. Phần cuối): Sự tỉnh táo về bi kịch của cuộc đời Chí Phèo.
4. Nội dung
Chí Phèo là một tác phẩm kiệt xướng trong văn học Việt Nam hiện đại. Thông qua truyện ngắn này, Nam Cao tóm lược một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng: sự biến đổi của một phần nông dân lao động trở nên tệ hại và tội lỗi. Tác giả lên án mạnh mẽ xã hội tàn bạo đã làm hại cả thân xác lẫn tâm hồn của người nông dân, nhấn mạnh vào bản chất lương thiện của họ, ngay cả khi họ đã mất hết phẩm chất và nhân tính.
5. Nghệ thuật
Xây dựng thành công những nhân vật mẫu mực, sử dụng nghệ thuật truyền đạt mạch lạc, tự nhiên và nhất quán, cùng với ngôn ngữ nghệ thuật sắc sảo…
III. Phân tích cấu trúc của Chí Phèo
(1) Bắt đầu
Giới thiệu và mở đầu về tác phẩm Chí Phèo.
(2) Nội dung chính
a. Về hoàn cảnh và nguồn gốc của nhân vật Chí Phèo
- Về nguồn gốc: không cha không mẹ, không gia đình…
- Một người nông dân tốt bụng, lương thiện:
- Làm việc chăm chỉ, trung thực: đi từ nhà này đến nhà khác, làm thuê để kiếm sống.
- Mong muốn cuộc sống bình dị: có một căn nhà nhỏ, làm thuê để kiếm sống, vợ dệt vải…
- Tự trọng: Khi bị vợ chồng Bá Kiến đánh, Chí Phèo chỉ cảm thấy nhục hơn là thích.
=> Chí Phèo có đủ điều kiện để sống một cuộc sống yên bình như bao người khác, giai đoạn đầu của cuộc đời lương thiện kéo dài khoảng 20 năm
b. Sự biến đổi tính cách của Chí Phèo
* Chí Phèo bị bắt và giam vào tù
- Chí Phèo làm công cho nhà của Bá Kiến.
- Vì một sự ghen tuông không lý do, Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù.
- Nhà tù thực dân đã biến Chí trở thành “một kẻ ác quỷ trong làng Vũ Đại”.
* Sau khi ra khỏi tù
- Ngoại hình thay đổi: “Đầu trọc, hàm răng trắng, khuôn mặt đầy vết sẹo, đôi mắt nhìn cằm cặp”.
- Tính cách: hỗn độn, không kiềm chế, mê say, hung hăng, mạnh mẽ, tàn bạo, thậm chí còn đòi nợ từ Bá Kiến nhưng lại trở thành tay sai cho hắn.
c. Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thi Nở
- Tình cảm giản dị, chân thành của Thi Nở đã làm thức tỉnh phẩm chất lương thiện trong Chí Phèo:
- Có khả năng nhận biết mọi âm thanh trong cuộc sống.
- Nhận ra nỗi đau trong cuộc sống của mình và sợ cô đơn, lẻ loi.
- Chí Phèo khao khát lòng lương thiện và mong muốn hòa mình với mọi người.
- Hình ảnh bát cháo trở thành biểu tượng đặc biệt, chân thực và ý nghĩa:
- Lần đầu và cũng là lần cuối Chí được thưởng thức ẩm thực trong tình yêu và hạnh phúc.
- Bát cháo đại diện cho tình yêu thương của Thi Nở đã đánh thức phần lương thiện trong Chí.
d. Số phận bi thảm do quyền lực làm con người
- Nguyên nhân: Do bà cô Thi Nở không cho Thi lấy Chí Phèo (biểu tượng cho những định kiến trong xã hội xưa).
- Tâm trạng của Chí Phèo thay đổi theo thời gian:
- Ban đầu: Chí Phèo bất ngờ trước thái độ của Thi Nở.
- Sau đó Chí hiểu ra mọi việc: Tuyệt vọng, Chí uống rượu rồi cầm dao đến nhà Bá Kiến đâm chết Bá Kiến và tự sát.
- Ý nghĩa của việc đâm chết Bá Kiến và tự sát của Chí Phèo:
- Việc đâm chết Bá Kiến là biểu hiện của sự phản kháng và tự giải thoát của người nông dân thức tỉnh về quyền sống.
- Cái chết của Chí Phèo là cái chết của một con người trong cảnh bi kịch đau đớn, trở về cuộc sống làm người.
(3) Kết thúc
Xác nhận giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Chí Phèo.
Chí Phèo
Nghe đọc Chí Phèo:
Hắn đi bước một, chửi bước một. Luôn thế, sau khi uống rượu là hắn chửi. Bắt đầu từ việc chửi trời, có ai cầu cứu không? Trời có phải là riêng của nhà nào đâu? Tiếp theo, hắn chửi đời. Điều này cũng không có gì lạ: Đời là tất cả nhưng cũng không là ai cả. Tức giận, hắn chửi ngay cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng đều nghĩ: “Chắc hắn không nói về tôi đâu!”. Không ai dám đứng lên. Tức thật! Ôi thật là tức tối! Tức đến mức không thể chịu nổi! Hắn phải chửi bất kỳ ai không chửi lại với hắn. Nhưng không ai dám đưa ra phản ứng. Ôi thương tiếc! Liệu rượu có phải làm vô ích không? Liệu hắn có cảm thấy đau khổ không? Không biết ai đã sinh ra hắn để hắn phải đau đớn đến như vậy! A ha! Đúng vậy, hắn tiếp tục chửi, hắn chửi người đã sinh ra hắn, đã sinh ra thằng Chí Phèo này? Nhưng liệu có ai biết không! Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết.
Một người đi thả lươn, vào một buổi sáng tinh mơ, đã thấy hắn, trần truồng và tái nhợt, đứng bên cạnh một lò gạch bỏ không, người đó đã đem hắn đến cho một bà góa mù. Bà góa mù này đã bán hắn cho một ông phó cối không con và khi ông phó cối này qua đời, hắn trở nên bơ vơ, từ nhà này sang nhà khác. Khi hắn hai mươi tuổi, hắn làm canh điền cho ông lý Kiến, bây giờ cụ bá Kiến, ăn tiền chỉ làng. Hình như, có mấy lần bà ba nhà ông lý, trẻ lắm mà lại hay ốm lửng, buộc hắn phải bóp chân, xoa bụng, đánh vào lưng gì đấy. Người ta bảo ông lý ra đình thì hách dịch, cả làng phải sợ, mà về nhà phải sợ cái bà ba còn trẻ này. Người bà ấy phốp pháp, má bà ấy hây hây, mà ông lý thì hay đau lưng lắm; người có bệnh đau lưng thì hay sợ vợ mà chúa đời là khỏe ghen. Có người bảo ông lý ghen anh canh điền khoẻ mạnh mà sợ bà ba không dám nói. Có người thì bảo anh canh điền ấy được bà ba quyền thu quyền bổ trong nhà tin cẩn nên lấy trộm tiền trộm thóc nhiều. Mỗi người nói một cách. Chẳng biết đâu mà lần. Chỉ biết một hôm Chí bị giải huyện rồi nghe đâu phải đi tù. Không biết tù mấy năm, nhưng hắn đi biệt tăm bảy, tám năm, rồi một hôm, hắn lại lù lù ở đâu lần về. Hắn về lần này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!
Hắn về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu và ăn thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều. Rồi say khướt, hắn xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi. Cụ bá không có nhà. Thấy điệu bộ hung hăng của hắn, bà cả đùn bà hai, bà hai thúc bà ba, bà ba gọi bà tư, nhưng kết cục chẳng bà nào dám ra nói với hắn một vài lời phải chăng. Mắc cái phải cái thằng liều lĩnh quá, nó lại say rượu, tay nó lại lăm lăm cầm một cái vỏ chai, mà nhà lúc ấy toàn đàn bà cả... Thôi thì cứ đóng cái cổng cho thật chặt, rồi mặc thây cha nó, nó chửi thì tai liền miệng đấy, chửi thì lại nghe! Thành thử chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!... Thật là ầm ỹ! Hàng xóm phải một bữa điếc tai, nhưng có lẽ trong bụng thì họ hả: xưa nay họ mới chỉ được nghe bà cả, bà hai, bà ba, bà tư nhà cụ bá chửi người ta, bây giờ họ mới thấy người ta chửi lại cả nhà cụ bá. Mà chửi mới sướng miệng làm sao! Mới ngoa ngắt làm sao. Họ bảo nhau: Phen này cha con thằng bá Kiến đố còn dám vác mặt đi đâu nữa! Mồ mả tổ tiên đến lộn lên mất. Cũng có người hiền lành hơn bảo: “Phúc đời nhà nó, chắc ông lý không có nhà...”. Ông lý đây là ông lý Cường, con giai cụ Bá nổi tiếng là hách dịch, coi người như rơm rác. Phải ông lý Cường thử có nhà xem nào! Quả nhiên họ nói có sai đâu! Đấy, có tiếng người sang sảng quát: “Mày muốn lôi thôi gì?... Cái thằng không cha không mẹ này! Mày muốn lôi thôi gì?...” Đã bảo mà! Cái tiếng quát tháo kia là tiếng lý Cường. Lý Cường đã về! Lý Cường đã về! Phải biết... A ha! Một cái tát rất kêu. Ôi! Cái gì thế này? Tiếng đấm tiếng đá nhau bình bịch. Thôi, cứ gọi là tan xương! Bỗng “choang” một cái, thôi phải rồi, hẳn đập cái chai vào cột cổng... ồ hắn kêu! Hắn vừa chửi vừa kêu làng như bị người ta cắt họng. Ồ hắn kêu!
- Ối làng nước ơi! Cứu tôi với... Ối làng nước ôi! Bố con thằng bá Kiến nó đâm chết tôi! Thằng lý Cường nó đâm chết tôi rồi, làng nước ôi!...
Và họ nhìn thấy Chí Phèo nằm dưới đất, kêu lên và lấy mảnh chai cào vào mặt. Máu tuôn ra, trông kinh khủng quá! Mấy con chó lao vào, sủa rất dữ dội. Lý Cường nhăn mặt một chút, đứng đó nhìn và cười mỉa mai. Ha! Ngờ là gì, hóa ra chỉ là một tên nằm ăn vạ! Thì ra hắn đã đến đây để nằm vạ!
Người ta đổ đến xem. Mấy cái ngõ tối xung quanh trở nên đông đúc hơn bao giờ hết! Thật ồn ào như thị trấn! Các bà cụ nhà cụ bá vững vàng vì có sự xuất hiện của ông lý, cũng thêm vào việc chửi mắng. Thực ra, họ muốn xem Chí Phèo sẽ làm gì tiếp theo? Không biết có phải hắn muốn gây rối cho cụ bá không...
Nhưng nhìn kìa, cụ ông đã trở về. Cụ nói một cách trang trọng: “Tại sao đông như vậy ở đây?”. Mọi người lễ phép mở ra, và Chí Phèo đột nhiên nằm xuống, không cử động, chỉ rên nhẹ nhàng như sắp chết.
Một cái nhìn thoáng đã hiểu được tình hình. Sau khi từng làm lý trưởng, sau đó là chánh tổng, việc như thế này không mới với cụ. Cụ nói một cách trực tiếp với những bà vợ đang thảo luận mạnh mẽ với chồng:
- Các bà đi vào nhà: đàn bà chỉ cần bàn luận, biết gì đâu?
Sau đó, quay lại nhìn người làng, cụ nói nhẹ nhàng hơn một chút:
- Cả các ông, các bà, hãy về đi! Tại sao lại tụ tập đông như vậy?
Không ai nói gì, mọi người dần dần tan đi. Họ tôn trọng cụ bá, nhưng họ cũng nghĩ đến sự bình yên của bản thân: dân quê không thích chuyện gây rối. Không ai muốn đứng ra làm chứng, vì họ sợ sẽ bị kéo vào rắc rối. Sau khi mọi người đi hết, chỉ còn lại Chí Phèo và cha con cụ bá. Cụ bá lại đến gần hắn, nhẹ nhàng lắc và nói:
- Anh Chí ơi! Tại sao anh lại làm như vậy?
Chí Phèo mở mắt nhắm mắt, rên lên:
- Tôi chỉ dám đối đầu với bố con nhà mày thôi. Nhưng nếu tôi chết, họ sẽ tránh khỏi sự trừng phạt, và tôi có thể sẽ bị giam cầm vô thời hạn.
Cụ bá cười nhạt, nhưng cười của ông rất sâu sắc: mọi người nói rằng sự già dặn của ông chỉ bởi nụ cười.
- Cái anh này nói quá hay! Ai mà làm gì mà phải chết vậy? Cuộc đời con người không giống như cỏ rác đâu! Lại say rồi phải không?
Sau đó, ông thân mật hỏi:
- Khi nào mới về nhà? Sao không vào nhà tôi chơi? Vào trong uống nước đi.
Thấy Chí Phèo không chịu động, ông tiếp tục:
- Đứng lên đi. Vào trong đây uống nước đi. Chúng ta có thể trò chuyện một cách lịch sự, không cần phải làm ồn ào như thế, người khác biết, sẽ là điều đáng tiếc.
Sau khi chửi Chí Phèo, cụ bắt đầu than phiền:
- Thật là đau lòng! Nếu có tôi ở nhà, chuyện này sẽ không xảy ra. Chúng ta có thể trò chuyện với nhau một cách dễ dàng. Người lớn tuổi, chỉ cần một cuộc trò chuyện là đủ. Chỉ vì thằng Lý Cường nóng tính không suy nghĩ trước khi làm. Ai, tôi với nó vẫn có họ hàng khác mà.
Chí Phèo không biết họ hàng của mình ra sao, nhưng anh ấy cảm thấy bớt căng thẳng. Anh ta cố gắng tỏ ra nặng nề, đứng dậy. Cụ bá biết rằng mình đã chiến thắng, liếc mắt một cái, cụ la lên:
- Lý Cường ở đâu! Tội nghiệp mày. Đừng để người ta đun nước, hãy nhanh lên!
Cụ dắt Chí Phèo đứng dậy, thúc anh ta một vài lời nữa, và Chí Phèo chịu đi: anh ta chỉ cố đập nhẹ chân như bị què. Bởi vì lúc ấy anh ta đã hơi say, không còn hăng hái như trước. Sự ngọt ngào làm cho anh ta dễ dàng nhận ra, và những người xung quanh đã đi hết. Anh ta cảm thấy như không còn mạnh mẽ nữa. Sự sợ hãi trong lòng trỗi dậy, nhưng anh ta cảm thấy tự hào với bản thân mình. Anh ta làm gì ở làng này? Không có ai ủng hộ, không có họ hàng thân thích; thậm chí cả bố mẹ cũng không... Vậy mà anh ta vẫn dám đấu tranh với tổng lý, lãnh tụ của làng Vũ Đại, chánh hội đồng kiêm huyện, Bắc kỳ nhân dân đại biểu, người nổi tiếng trong hàng huyện. Liệu có ai ở làng này, với hơn hai nghìn suất định, có thể làm được như anh ta không? Dù có phải trả giá bằng cả mạng sống, anh ta cũng cam lòng. Nhưng không, cụ bá nổi giận thì lại trở nên nhân từ, mời anh ta vào nhà uống nước. Thôi cũng được, đã nhân từ thì anh ta vào. Nhưng bỗng anh ta cảm thấy ngần ngại; không biết có phải cụ lão này đang lừa anh ta vào nhà rồi sẽ đánh nhau không? Ồ thì có thể thật đấy! Nếu cụ bá này lừa anh ta vào nhà, sau đó lại gọi làng đến, rồi cột anh ta vào và đánh cho một trận tan xương, sau đó kêu là ăn cướp thì sao? Cụ bá Kiến này, già dặn, còn nịnh nọt cái nước gì mà lại chiếu nhượng như trấu. Thôi dại gì mà bước vào miệng sói, anh ta cứ đứng đó, cứ nằm đó, và lại kêu to lên. Nhưng suy nghĩ một chút, nếu anh ta lại nằm đó kêu, liệu có ai ra không? Hơn nữa, bây giờ rượu đã nhạt, nếu phải nhận thêm vài nhát đau nữa thì cũng không tốt. Thôi thì cứ vào! Vào làm gì? Muốn đập đầu thì cứ vào nhà hắn mà đập đầu, còn hơn là ở ngoài. Hơn nữa, nếu hắn bắt đầu gây sự, anh ta cũng chỉ bị đưa vào tù thôi. Ở tù thì hắn coi như là điều bình thường. Thôi thì cứ vào.
Sau khi bước vào, Chí Phèo mới nhận ra những gì anh ta sợ là không có gì cả. Bá Kiến có ý muốn giải quyết vấn đề với anh ta một cách thực sự. Cụ không phải là người sợ hãi, nhưng thực sự cụ rất thông minh, biết cách ứng phó với kẻ mạnh mẽ và dám liều. Chí Phèo không phải là anh hùng, nhưng anh ta là người dám thử thách. Ai mà muốn chấp nhận người dám dấn thân như vậy! Nhưng việc làm mềm dẻo mạnh mẽ là điều không thể. Trong công việc quản lý, nếu luôn làm theo một cách cứng nhắc thì nên bán nhà đi sớm. Cụ đã từng nói về Lý Cường như thế đấy. Vai trò dũng cảm của Vũ dũng là nhờ có sự hỗ trợ từ cụ. Nếu cụ mất đi, 'chúng tôi' sẽ không được bù đắp.
Điều này chứng tỏ làm tổng lý không dễ dàng. Trong làng này, có hơn hai nghìn người, và mọi thứ xa xôi. Dù làm tổng lý có thể được ăn nhưng không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng. Một nhà địa lý từng nói rằng làng này nằm trong 'cuộc đấu tranh về lợi ích chung', và các cựu chiến binh chỉ là những con cá tranh mồi. Cá mồi có vẻ ngon, nhưng khi có nhiều con cùng tranh giành, mọi thứ trở nên khó khăn. Mặc dù bề ngoài tử tế, nhưng thực ra mọi người luôn muốn làm hại nhau để đạt được mục đích cá nhân. Ngay cả Chí Phèo khi đến gây rối, có lẽ không thiếu những kẻ ủy thác. Nếu cụ không kiên nhẫn, việc này có thể làm hỏng mọi thứ và tốn kém. Trong nghề quản lý, ai nắm đầu tóc của ai? Bỏ tù một người dễ thôi; nhưng người bị bỏ tù cũng sẽ được phóng thích một ngày nào đó, liệu họ sẽ yên bình không? Cụ nhớ vụ năm Thọ, vẫn chưa quên cho đến bây giờ.
Năm Thọ từng là một người tầm thường. Khi bá Kiến mới làm tổng lý, hắn dường như đã có một mâu thuẫn với ông; bá Kiến muốn xử lý hắn nhưng không có cơ hội. Không lâu sau đó, hắn bị bắt vì tham gia vào một vụ cướp; bá Kiến đã lén lút thúc đẩy việc này. Họ nghĩ rằng một kẻ như năm Thọ, nếu bị buộc tội đến mức phải vào tù thì sẽ không dám trở lại làng nữa. Bá Kiến cảm thấy hạnh phúc khi đã loại bỏ mối đe dọa này. Nhưng không ngờ vào một tối, khi bá Kiến đang một mình trong phòng, năm Thọ bất ngờ xuất hiện. Hắn đứng trước cửa và đe dọa: nếu kêu lên một tiếng, hắn sẽ giết ngay. Hóa ra hắn đã trốn khỏi tù và trở về đây để tìm ông lý và một tờ giấy mang tên một người tốt và một trăm đồng bạc để tìm cách trốn thoát. Hắn cũng nói: nếu họ không nghe theo, hắn sẽ giết họ.
Tự nhiên bá Kiến phải nghe theo, và năm Thọ biến mất sau đó, không bao giờ trở lại nữa. Nhưng trong cuộc sống, có bao giờ kẻ cả? Năm Thọ chỉ mới đi, thì Binh Chức trở về từ nơi nào đó. Khi ở nhà, hắn thậm chí còn tỏ ra kiêu căng! Mọi người đã gọi hắn là 'cục đất'. Ai biết khi hắn làm gì thì lại không may, đái ra quần ngay sau đó, thuế vượt quá một đồng thì phải nộp hơn hai đồng, và ngay cả khi bị đùa giỡn, hắn cũng chẳng dám đáp trả. Cuối cùng, bực tức, hắn gia nhập quân đội. Làm gì có điều tồi tệ hơn! Nếu không tức giận, hắn còn giữ được vợ, dù đôi khi hắn phải chịu sự trừng phạt. Nhưng khi tức giận, hắn đã mất vợ. Bởi vì vợ hắn ở nhà còn trẻ, mới có hai đứa con, đôi mắt sắc như dao lại hồng hồng đôi má, bỗng nhiên phải sống một cuộc sống không có chồng, một cuộc sống tươi đẹp trước mắt nhưng không thể chịu đựng được.
Nhà của Binh Chức ở gần con đường. Ông phó đi chơi bạc về cũng ghé vào; anh trai đi công tác cũng ghé vào; hàng xóm cũng tới, thậm chí cả thằng hương Điền, đầu một đống tóc, già dặn làm tớ cho các ông lý trưởng, cũng cố gắng tiếp cận. Vợ của Binh Chức đã trở thành một cái nhà thổ không cần trả tiền cho việc đối xử không công bằng trong làng. Ngay cả bá Kiến, dù đã có ba người vợ, cũng không nỡ bỏ mất cái mà trời ban cho; và việc đó đã mang lại lợi ích. Mỗi khi vợ Binh đi nhận lương hoặc lương của chồng, cô phải nhờ một ông lý khác đi thay mặt. Không có ông lý nào có thể ăn lương mà không nhận thưởng. Nhưng với bá Kiến, không chỉ là ăn uống và tiền bạc, còn phải cung cấp xe chung và ở lại tỉnh thức.
Đó là số tiền lương suốt cuộc đời; con cái của chị sẽ chỉ nhận được vài cái kẹo mút, hoặc nếu may mắn thì được vài cặp bánh giầy giò. Thành quả của công lao anh Binh, chỉ còn lại cho chị Binh mỗi tháng một cuộc vui với ông lý nhà.
Không hiểu sao, anh ta biết và chán cảnh gia đình, vì sao không quay trở lại sau ba năm. Sau đó, không lâu, có thông tin rằng Trần Văn Chức đã trở về làng và bị đưa ra xử lý. Lý Kiến nói rằng hắn là một người lưu vong không quay trở lại làng. Nhưng dù nói vậy hôm trước thì hôm sau hắn đã trở lại. Lý Kiến sai người đầy tớ đến nhà hỏi hắn. Hắn đến ngay, nhưng lại dẫn theo cả vợ và hai con. Trước khi ông lý nói lời nào, hắn rút ra con dao và đe dọa: “Tôi đang bị buộc tội giết người. Nếu ông không thương, mà bắt giải thì vợ con tôi sẽ chết đói. Thôi thì cho họ chết, tôi sẽ giết họ ngay đây và rồi ông cầm tù hình.”. Mắt hắn đỏ rực; lưỡi dao sáng bừng, chỉ cần nhìn thấy đã khiến mọi người run lên. Hắn có thể giết người, nhưng không chỉ vợ và con, khi hắn đã dám đe dọa đến vợ con thì còn ai nữa? Lý Kiến suy nghĩ một lúc và nói để hắn về rồi sẽ xử lý. Xử lý có nghĩa là che đậy tội ác của hắn và mỗi lần có vụ trát về, Lý Kiến đều nói rằng vẫn chưa có tên Chức về. Như vậy, hắn sống trong làng mà không ai nhận biết. Bây giờ, mọi người nhận ra vợ hắn rất chăm chỉ và trung thành, chị ta làm việc chăm chỉ để nuôi hắn. Một số người nghĩ rằng đã có chồng mà còn lêu lêu thì phải trách; mọi người đều là con người tốt trừ anh Binh, vì Chức lại ngang ngược. Hắn trồng trọt, nhưng không nộp thuế cho ai. Khi bị nhắc nhở, hắn chửi; khi bị kiểm tra, hắn đánh. Khi gặp phải vấn đề, thì lý trưởng làng lại bị coi là kẻ ẩn lậu hắn.
- Khi tôi còn ở quân đội, tôi gửi về nhà có một trăm. Nhưng không hiểu vì lí do gì mà vợ tôi đã tiêu hết mà không còn một đồng nào. Tôi hỏi nó thì nó nói: khi ở nhà một mình, không dám giữ tiền, và mỗi đồng nào mang về đều gửi cho ông lý. Tôi lo rằng nó đang nói dối, nên đã trói nó lại ở nhà. Nay tôi đã đến đây xin ông tính toán, xem có bao nhiêu tiền để mang về nuôi con cháu. Nếu thiếu một đồng, tôi sẽ không để yên cho chúng nó.
Lý Kiến hiểu rằng “chúng nó” có thể bao gồm cả ông. Ông mỉm cười nhạt và nói:
- Như vậy, anh Binh ạ: chị ấy gửi tôi không nhận được...
Hắn nhếch môi và phản đối:
- Vậy thì ai sẽ chịu trách nhiệm?
Lý Kiến vội vàng đáp lại:
- Nhưng nếu anh cần tiền, chỉ cần nói tôi biết. Việc chị ấy đã tiêu hết không thể lấy lại được. Không cần phải làm ra rắc rối vô ích.
Ông mở ra và ném cho hắn 5 đồng bạc. Hắn nhận lấy, cảm ơn lịch sự, rồi cầm dao rời đi. Từ đó, hắn trở nên lịch sự hơn với lý Kiến, dù ông vẫn phải đôi khi cho hắn tiền. Cho đến năm ngoái, hắn qua đời...
Năm nay, lại xuất hiện Chí Phèo, một thằng hiền lành như đất - thương xót cho hắn, có một lần Lý Kiến nhìn thấy hắn vừa bóp đùi cho bà ba, vừa run rẩy! Bất ngờ hắn lập tức thể hiện tính cách uống máu người. Hóa ra già nỗi đã chịu không nổi nên đứa trẻ phải rời làng. Mười người ra đi, chín người trở về với bản tính hung bạo, tính cách ương ngạnh học được từ nơi xa xôi. Một người khôn ngoan chỉ làm phái nửa. Hãy thầm thì đẩy họ xuống sông, nhưng sau đó lại giúp họ lên bờ để họ đền ơn. Hãy đòi lại năm đồng, nhưng khi đã được, lại trả lại năm hào 'vì thương tiếc anh túng quá'! Và cũng phải tùy hoàn cảnh: những người có vẻ đẹp, vợ con, là những người dễ bị bóp nát; ngược lại, những người tự cho mình thân quen, giết chúng dễ dàng, nhưng giết xong, chỉ còn lại xương; và gây sự với họ là mở cơ hội tốt để kẻ thù lợi dụng. Mỗi làng đều có những nhóm, mỗi nhóm tập hợp xung quanh một người: nhóm của cụ Bá Kiến, nhóm của ông Tảo, nhóm của ông Tư Đạm, nhóm của ông Bát Tùng... Mặc dù nhóm đó liên kết với nhau để lừa dối những đứa trẻ, nhưng thầm lặng phân chia, tạo ra những kẽ hở để chúng ta đánh nhau. Cụ nhận ra rằng: ở quê nhà này, những người hiền lành bị bóp nát chỉ làm nuôi những người hào lý, nhưng chính những người hào lý, đôi khi phải phục vụ những kẻ dũng cảm hơn cả, luôn sẵn sàng đâm dao vào người hoặc đâm vào chính mình.
Nhưng cụ không phải là người thích than thở. Than thở không giúp ích gì, những người bị đè nén suốt đời chỉ biết than thở mà không biết làm gì khác. Cụ Bá Kiến không cần phải than thở: nếu không thể trị thì cụ sẽ sử dụng. Cụ đã suy nghĩ rằng cần phải có những người dũng cảm như thế. Nếu không có những người dũng cảm, thì sẽ không ai để trị những kẻ dũng cảm. Sức mạnh của cụ đến từ khả năng thích ứng, biết cách sử dụng những người dũng cảm không sợ chết và không sợ tù. Những người đó là những người cần thiết. Khi cần, chỉ cần cho họ uống vài ly rượu, là có thể sai họ tác động lên bất kỳ ai không nghe theo mình. Gặp người cứng đầu, ganh ghét, họ sẽ lừa đảo hoặc đe dọa nhà, hoặc giấu dao để đâm; gặp người ngây thơ, họ sẽ cho họ rượu lạ, tạo ra vấn đề rồi trốn tránh trách nhiệm. Chỉ khi họ gây rối, chúng ta mới có cơ hội kiếm ăn; nếu không, giữa đám dân hiền lành và yên bình này, sẽ khó bóp nát hơn vào việc thu thuế. Nếu chỉ dựa vào thuế một năm một lần, thì thậm chí cũng không đủ để bù vào việc chi hàng nghìn bạc để giải quyết mâu thuẫn.
Vì vậy, vào đêm đó, khi Bá Kiến trở về nhà, Chí Phèo cảm thấy rất hớn hở! Cụ không chỉ không trách móc gì hắn, mà còn giết gà mua rượu cho hắn uống, sau đó lại tặng thêm vài đồng bạc để mua thuốc. Nhưng tiền bạc, không cần đến. Hắn lang thang vừa đi vừa cười; hắn không cần ba xu đó. Trong thời gian ở tù, hắn đã học được một số bí quyết để che giấu: chỉ cần vài lá thuốc, là hắn lại bình thường. Còn tiền bạc thì chỉ dành để đi uống rượu...
Hắn uống được ba ngày, vào ngày thứ tư, hắn nổi điên, nói với chủ quán rượu rằng:
- Hôm nay ông không có tiền; cửa hàng của mày bán cho tôi một chai. Tối tôi sẽ mang tiền đến trả.
Bà chủ quán rượu hơi run rẩy. Liền, hắn rút bao diêm, châm lửa lên mái nhà bà. Bà hoảng sợ kêu la om sòm, vội vàng dập tắt lửa. Sau đó, bà đưa chai rượu. Hắn cười hầm hầm, nhấn mạnh với bà:
- Con người nhà mày khó tính quá! Ông mua hàng chứ không phải xin phép mày! Mày nghĩ ông lừa dối à? Hỏi cả làng xem có ai bị lừa bởi ông chưa! Ông không cần thiết tiền! Ông còn gửi tiền cho cụ Bá, chiều nay ông sẽ đến đó lấy tiền trả cho bà.
Bà vẫn còn chùm áo kéo lên để lau nước mũi, nói:
- Chúng con không dám chắc nhưng thực ra là vốn ít ỏi.
Hắn quát lên:
- Nếu thiếu vốn thì tối nay anh trả. Sao, nhà mày đã khuất hồn rồi à?
Sau đó, hắn mang chai rượu về. Hắn quay về căn miếu nhỏ ở bên bờ sông, vì từ trước đến nay hắn không có nhà cửa. Trên đường về, hắn đã lấy được bốn quả chuối xanh và chôm được một ít muối trắng từ cô bán hàng xóm. Bây giờ, hắn thưởng thức rượu kèm chuối xanh và muối trắng, thấy rất ngon. Hắn uống rượu kèm mọi thứ đều thấy ngon.
Sau khi uống xong, hắn lau miệng, sau đó đi ngắt ngày ngắt nghỉ đến nhà ông Bá Kiến. Ai gặp cũng bảo hắn đến đòi nợ ông Bá Kiến! Khi mới thấy hắn bước vào sân, ông Bá Kiến đã biết hắn đến để làm việc. Ánh mắt của ông lạnh lùng, hai chân đi lảo đảo, môi run bần bật. May mà hắn không cầm chai rượu, ông Bá Kiến cũng lên tiếng hỏi:
- Chí Phèo đi đâu vậy?
Hắn trả lời lớn tiếng:
- Lạy ông ạ. Xin ông... Con đến cửa ông để kêu ông một việc ạ.
Giọng hắn lắng đọng và tiếng đã gần như méo mó. Nhưng cử chỉ thì lại nhẹ nhàng; hắn vừa gãi đầu vừa lải nhải:
- Ông ạ, từ khi ông bắt đi ngồi tù, con lại thích đi ngồi tù, ông có thể hiểu, con nói gian thì trời tru đất diệt, ông quả là sống thoải mái trong tù. Ngồi tù còn có cơm để ăn, còn về làng thì một thước đất cắm dùi cũng không có, chả làm gì nên ăn. Ông ơi, con lại đến kêu ông, ông lại cho con ngồi tù...
Ông bá quát, bắt đầu từ khi nào ông cũng thường quát để thử sự bền chịu của người.
- Anh này lại say quên rồi!
Hắn lại tiến gần, quay đầu điệp điệp, giơ tay lên nửa chừng:
- Ông không ạ, ông ơi không. Con đến xin cụ cho con ngồi tù và nếu không được thì... thì... thưa cụ...
Hắn xới từng túi, tìm kiếm một vật gì đó, hắn rút ra: đó là một con dao nhỏ, nhưng cực kỳ sắc bén. Hắn nhai răng nói tiếp:
- Vâng, nếu cụ không đồng ý, thì con phải đâm chết vài ba người, rồi cụ sẽ bắt con ra khỏi làng.
Rồi hắn cúi người xuống, cẩn thận mài sắc cho chiếc bàn màu nhạt. Cụ bá bật cười lớn. Cụ tự hào hơn cả lời cười của Tào Tháo kia. Cụ đứng dậy, vỗ vai hắn và bảo:
- Anh bổn lắm. Nhưng này, anh Chí ạ, anh muốn thủ tiêu ai cũng không khó. Ông Tảo ấy nợ tôi năm mươi đồng đấy, anh hãy lên đòi tôi, đòi được tự nhiên có vườn.
Ông Tảo là một tay địch trong làng. Vây cánh ông ta mạnh, vẫn tranh nhau với nhà cụ bá mà cụ bá thường phải chịu bởi ông ta là cựu binh, lương hưu nhiều, quen thuộc, lại ăn nói giỏi. Ông ta vay cụ bá năm mươi đồng từ lâu, bây giờ đột nhiên đòi nợ, lấy lí do số tiền đó tính vào số tiền chè lý Cường ra làm lý trưởng chưa trả ông. Cụ bá tức tối nhưng chưa biết làm gì, vì binh Chức, đầy tớ của cụ, đã chết năm ngoái. Bây giờ cụ mới gặp được Chí Phèo, có thể thay cho binh Chức. Cụ thử nói chọc xem sao. Nếu nó trị được ông Tảo thì tốt lắm. Nếu nó bị ông Tảo thắng thì cụ cũng chẳng mất gì, vẫn có lợi cho cụ.
Chí Phèo nhận ngay! Hắn ngay lập tức đến nhà ông Tảo và chửi ngay từ cửa. Nếu gặp vào hôm khác, có thể gây án mạng: ông Tảo có thể đâm chém, chưa bao giờ tránh cuộc xung đột. Nhưng may cho hắn, hay là cho Chí Phèo, hôm ấy ông ốm nằm giường, không thể dậy được, có lẽ ông cũng không biết Chí Phèo chửi ông. Vợ ông, nhìn thấy Chí Phèo thở ra mùi rượu, và biết rõ về món nợ, lấy năm mươi đồng giấu chồng đưa cho người nhà đi theo Chí Phèo. Phụ nữ thích hoà bình; họ muốn yên chuyện thì thôi, gai ngạnh làm gì cho sinh sự. Ngoài ra, bà ông cũng nghĩ rằng: chồng bà đang ốm... chồng bà có nợ người ta chắc chắn... Và năm mươi đồng đối với nhà bà là ít, lôi thôi lại còn không đáng kể so với ba lần năm mươi đồng!
Vì thế, Chí Phèo được thịnh vượng hơn; hắn cảm thấy mình oai phong hơn nhiều. Hắn tự tin: “anh hùng làng này có thằng nào bằng ta!”. Cụ bá thấy mình chiến thắng mà không cần đến cuộc họp làm biên bản thì thỏa lòng mình. Cụ bá cũng cho anh đầy tớ mới năm đồng.
- Anh Chí ạ, cả năm mươi đồng này thuộc về anh. Nhưng nếu anh cầm hết thì chỉ ba ngày là hết. Vậy anh nhận lại phần này để uống rượu, còn tôi bán mảnh vườn cho anh; không có vườn đất thì làm ăn gì?
Chí Phèo rời đi với lời đồng ý. Một vài ngày sau, ông bá bảo lý Cường giao cho anh ta một mảnh đất ven sông để thuê. Chí Phèo bất ngờ có được một tổ ấm. Lúc đó, anh ta chỉ mới khoảng hai mươi tuổi…
Bây giờ, anh ta trở thành một người vô tuổi. Ba mươi tám hay ba mươi chín tuổi? Bốn mươi hay hơn nữa? Gương mặt của anh không trẻ cũng không già; nó không phải là gương mặt của con người nữa; đó là gương mặt của một sinh vật lạ, có con mắt nào của sinh vật biết tuổi của nó không? Gương mặt của anh vàng và muốn xám đi; nó đầy vết sẹo, không có trật tự, có bao nhiêu vết sẹo. Có bao nhiêu lần anh ta đi lang thang trên đường phố, bao nhiêu lần, anh ta không thể nhớ được? Bao nhiêu lần bị bắt cóc, bị đánh đập, bị hãm hại, bị thương, những công việc đó người ta giao cho anh ta làm! Những công việc đó là cuộc sống của anh; cuộc sống mà anh ta không biết đã kéo dài bao lâu rồi. Vì không có thẻ tuổi, trong sổ hộ khẩu của làng, anh ta vẫn được ghi là người lưu vong, không quay về làng từ lâu. Anh ta nhớ rằng có một lần anh hai mươi tuổi, sau đó anh bị bắt và nhớ đến đâu thì không biết đúng hay không? Vì từ đó, đối với anh, thời gian không còn ý nghĩa nữa. Vì từ đó, anh ta luôn say. Nhưng trạng thái say của anh không bao giờ kết thúc, từ một cơn say này sang cơn say khác, kéo dài một cách vô tận, anh ta ăn uống khi say, ngủ khi say, thức dậy vẫn còn say, chửi rủa, đe dọa khi say, uống rượu khi say, để lại trạng thái say, không bao giờ tỉnh. Anh ta chưa bao giờ tỉnh và có lẽ anh ta chưa bao giờ hoàn toàn tỉnh táo để nhận ra rằng mình còn sống trên thế giới này. Có lẽ anh ta không biết mình là một con quỷ của làng Vũ Đại, đã gây ra bao nhiêu tai họa cho dân làng. Anh ta không biết rằng tất cả những việc mình đã làm, anh ta đã làm trong trạng thái say rượu; khi say rượu, anh ta thực hiện bất kỳ hành động nào người ta giao phó cho anh ta. Mọi người trong làng đều sợ hãi và tránh xa anh ta mỗi khi anh ta đi qua.
Vì vậy, anh ta chửi mọi thứ hoặc không cần lý do, chỉ cần uống rượu xong là anh ta sẽ chửi. Anh ta chửi giống như cách mà người say rượu hát. Nếu anh ta biết hát, có lẽ anh ta sẽ không cần phải chửi. Điều đó làm cả anh ta và những người xung quanh cảm thấy khó chịu. Vậy nên, anh ta chửi, như anh ta đã làm chiều nay...
Anh ta chửi trời, chửi đời. Anh ta chửi cả làng Vũ Đại. Anh ta chửi tất cả những người không chửi lại anh ta. Nhưng mặc cho điều đó, ai có tinh thần kiên nhẫn, chịu đựng anh ta chửi, anh ta lại càng tức giận hơn vì không ai đáng để anh ta chửi. Và điều đó khiến anh ta tức giận hơn nữa; vì không thể chửi một mình được; nếu chỉ có một người chửi một mình thì sẽ không có sự trao đổi nào! Do đó, đó chắc chắn là lý do để tức giận, một lý do hợp lý để anh ta có thể thể hiện sự quyết đoán và trả thù. Phải, anh ta phải trả thù, trả thù ai đi nữa. Anh ta phải vào bất kỳ nhà nào, bất kỳ nhà nào. Anh ta sẽ đi vào bất kỳ ngõ nào gặp được để phá hoại, đốt cháy nhà cửa hoặc gây rối. Phải, anh ta sẽ đi vào bất kỳ ngõ nào anh ta gặp được... Ồ, có vẻ như đã thấy mục tiêu rồi...
Nhưng mặt trăng lên, mặt trăng rằm sáng dần. Ánh trăng chiếu rọi trên con đường trắng sáng. Ồ, điều gì đang xảy ra, một cái gì đó đen tối và gớm ghiếc trên con đường trắng ngần? Nó di chuyển về phía bên trái, thu hẹp rồi lại mở ra, vạch vách vài chỗ.
Vật đó đang lăn lộn dưới bàn chân của Chí Phèo. Chí Phèo dừng lại, nhìn vật đó và bất ngờ cười. Hắn cười mỉm, cười đầy thú vị. Chỉ cần vật đó cứ chửi lại là tốt! Vật đó là bóng của hắn. Chí Phèo cười và quên mất việc trả thù: hắn đã đi qua cái ngõ đầu tiên kia rồi. Giờ đến ngõ nhà tự Lãng, một người thầy cúng với bộ râu mơ màng. Chí Phèo nảy ra ý định: vào đây và phá bàn thờ của ông tự một nửa năm này. Bởi vì ông tự này vừa làm thầy cúng vừa nuôi lợn. Tiếng đàn của ông lớn hơn cả tiếng lợn kêu. Nhưng khi vào, ông tự đang uống rượu; ông uống ngay ở sân, vuốt râu, rung đầu. Chí Phèo nhìn và thấy ông cũng không tồi. Hắn thấy tất cả những kẻ say rượu đều tốt. Rồi đột nhiên hắn khát, chết tiệt, sao mà khát! Khát đến đau cổ họng... Không do dự, hắn lại bên ông tự, lấy chai rượu và nhấc lên. Ông tự nở cổ gà, trố mắt lên, nhưng không nói gì. Lưỡi ông lại ríu lại, không nói gì cả? Ông đã uống hết hai phần chai. Một phần còn lại, Chí Phèo uống nốt. Hắn uống, rồi khà một cái, cứ như còn thèm. Rồi hắn vặn mấy sợi râu của ông tự, nhìn lên trăng và cười. Ông tự cũng cười. Hai kẻ say rượu này ngả vào nhau cười, như một đôi tri kỷ điên. Rồi ông tự đi vào nhà lấy hai chai rượu nữa; ông có hai chai nữa, ông mời Chí Phèo uống, uống say, không cần lo. Uống thoải mái, đừng lo lắng! Vợ ông chết cách đây bảy tám năm, con gái ông đi theo người khác, ông chỉ còn một mình, không ai lèo tèo xung quanh, ông muốn uống đến khi nào thì uống. Cứ uống! Cứ uống, cứ uống đi ông bạn lạc đường từ trăng cung xuống ạ! Uống say sưa, uống đến khi phải đi tiểu rượu mới thích. Chẳng cần giữa giữa, có giàu có nghèo, có làm nên danh vọng, chết cũng không ai gọi là “cụ lớn mả”! Ông sống được hơn năm mươi rồi mà chưa thấy một “cụ lớn mả” nào sống sót! Chỉ có mả, mả đất. Ai chết cũng trở thành mả, say sưa chết cũng trở thành mả, có gì đâu? Cứ say.
Chưa bao giờ Chí Phèo được thoả thích đến thế! Hắn kỳ lạ sao mới bây giờ mới ngồi uống rượu với ông tự này. Cả hai uống rất nhiều. Rất nhiều. Dường như cả làng Vũ Ðại phải kiêng uống để đủ rượu cho cả hai uống.
Khi cạn cả hai chai, tự Lãng bò ra sân. Ông bò như con cua và hỏi Chí Phèo rằng: con người đứng dậy bằng cái gì? Chí Phèo nhận lên ông, vuốt sợi râu mờ mờ của ông mấy cái, rồi để ông thế, hắn lảo đảo ra về.
Hắn đi vừa đi vừa đắp ngực và gãi. Hắn gãi ngực, gãi cổ, gãi tai và gãi đầu. Có khi hắn phải dừng lại giữa đường để gãi, chèo chống lên gãi, hắn khó chịu quá, và liền nghĩ đến bờ sông gần nhà. Vườn của hắn nằm bên một dòng sông nhỏ, nước trong và trong, đầy những cây dâu mềm mại, cuộn tròn thành từng dải. Duy có khu vườn của hắn trồng đầy chuối, góc vườn có một cái lều nhỏ. Trong những đêm trăng như thế này, vườn rợp bóng chuối đen như những chiếc áo nhuộm tung lên bãi. Và những tàu chuối nằm úp mặt, cong vẹo lên đón ánh trăng xanh rời rợi như nước, đôi khi bị gió lay làm vùng vẫy như là muốn đón tiếng nói của trời.
Chí Phèo nhìn những tàu lá chuối và đi vào vườn. Nhưng hắn không vào lều, hắn tiến thẳng ra bờ sông. Hắn muốn nhảy xuống tắm để giảm ngứa, rồi lăn ra vườn ngủ. Tại sao phải vào lều, nóng bức chết. Một thằng như hắn, đập đầu không chết, còn gió mưa... Khi đến bờ sông, hắn dừng lại, vì có vẻ như có người. Thật vậy, có người, và hắn ngẩn ngơ nhìn.
Hắn nhìn giữa hai lọ nước, tựa lưng vào gốc chuối, một người phụ nữ ngồi bên cạnh. Đó chính là thị Nở, biết vậy là nhờ mái tóc dài buông xuống vai trần và ngực... Hai tay của mụ buông xuống, cái miệng của mụ há hốc lên trăng, ngủ chứ không phải chết. Đôi chân thì duỗi thẳng ra trước mặt, cái váy đen xộc xệch... Bên kia, mụ giẫy yếm xẹo xọ để trật ra cái sườn nây nây. Tất cả những cái ấy được trăng phơi sáng, làm trắng, rồi rủ rỉ những trăng làm đẹp hơn. Chí Phèo cảm thấy miệng ướt dãi bấy nhiêu, nhưng cổ lại khô, hắn nuốt ừng ực, cảm thấy cơ thể rần rần rùng lên. Bỗng nhiên hắn run rẩy. Tại sao như vậy? Thật ra người phụ nữ đó mới nên sợ, người đàn bà ngốc đã ngủ bên cạnh nhà hắn này.
Thị Nở chính là người đó, một người kỳ quặc như trong chuyện cổ tích và xấu xí đến chê quỷ hờn. Gương mặt thật của thị là một điều trêu hoa ghẹo gió: nó ngắn đến nỗi có thể tưởng rằng bề ngang lớn hơn bề dài, nhưng hai má nó lại chen lấn nhau, thật là đáng sợ, nếu như má nó căng tròn, thì mặt thị lại còn dày như mặt lợn, là một mặt đầy đặn hơn bình thường, trên cổ nó. Cái mũi của nó ngắn và to, đỏ và xù xì như vỏ cam sành, môi nó cong vênh muốn chen chúc với nhau, nếu như không chín chắn, chúng có thể nứt nẻ như vụn vỡ. Điều đặc biệt là thị còn hút thuốc, hai môi dày được bồi bổ, may là thuốc chất lượng, che được màu thịt trâu xám. Còn những chiếc răng to được bồi dưỡng, cố gắng tạo ra sự cân đối cho sự xấu. Thị thì dễ mắc bệnh, nhưng đó là ân huệ của trời, nếu sáng suốt thì người phụ nữ đó sẽ khổ sở từ khi mua chiếc gương đầu tiên. Và thị sẽ không còn đơn độc nếu đối diện với điều ngược lại, ít nhất cũng có một người đàn ông khổ sở. Thị là dòng giống của một gia đình không cần phải suy nghĩ. Người ta tránh xa thị như tránh một con vật kì lạ. Ngoài ba mươi tuổi, thị vẫn chưa lấy chồng. Ở làng này, mọi người kết hôn từ lúc còn nhỏ, và có thể có con từ khi còn trẻ, không ai chờ đến tuổi hai mươi để có con thứ nhất. Nhìn vào điều đó, ta có thể kết luận: thị Nở chưa lấy chồng. Thị không có người thân nào ngoài một người cô đã già, cũng không có chồng như thị. Đó là số phận, để không ai phải cô đơn trên cuộc đời này. Người cô làm thuê cho người phụ nữ bán chuối và thuốc lá, đi xe đi Hải Phòng, Cẩm Phả. Còn thị sống bằng nghề lặt vặt ở làng. Hai cô cháu sống trong một nhà tre cách vườn của Chí Phèo bởi một con đê; hắn ở ngoài, hai người ở trong xóm. Có lẽ vì vậy mà thị Nở không sợ thằng mà cả làng sợ. Quen nhau lâu cũng khiến sợ. Những người trông coi vườn thú thường nói rằng hổ báo hiền y như mèo. Và cũng có lý do gì để thị sợ hắn chứ? Không ai sợ người khác phạm đến cái xấu, cái nghèo, cái ngốc của bản thân, thị chỉ có ba cái đó... Phần nào cũng vì Chí Phèo ít khi ở nhà, mà khi ở nhà thì hắn hiền lành, ai dám hung hăng khi ngủ? Hắn chỉ về nhà để ngủ.
Mỗi ngày, thị Nở phải đi qua vườn nhà hắn hai ba lần, vì qua vườn nhà hắn có một lối nhỏ dẫn ra sông; trước đây, cả xóm vẫn dùng lối ấy để đi sông tắm giặt hoặc cá nhân. Nhưng từ khi hắn đến, mọi người tìm một con đường khác xa hơn. Ngoại trừ thị Nở: mọi người bảo thị là người dại, thị không muốn làm giống như người khác. Quá tin người, quá tin bản thân, liều lĩnh, hay có lẽ chỉ không chịu thay đổi. Nhưng biết thế mà thị vẫn đi qua đó, không hề có vấn đề. Dần dần thì quen. Có một lần khi Chí Phèo đang ngủ, thị vào nhà hắn để xin lửa, có lúc thị xin hắn chút rượu về để xoa chân; hắn mải ngủ càu nhàu nói rằng: ở đây, muốn bao nhiêu thì lấy, để yên cho hắn ngủ. Và đôi khi thị tự hỏi: tại sao mọi người lại sợ hắn như vậy?
Chiều hôm đó thị Nở cũng ra sông như mọi chiều khác. Nhưng chiều đó, trăng sáng hơn bao giờ hết, ánh trăng chiếu xuống sông làm sông nhấp nhô vàng óng ánh. Những điểm sáng ấy đẹp đẽ nhưng cũng làm mỏi mắt. Gió thổi mát mẻ như quạt hầu. Thị Nở cảm thấy buồn ngủ, mí mắt nặng nề, cố gắng chống lại. Thị có tật ngủ bất chợt, bất kể ở đâu hay làm gì. Bà cô bảo thị là vô tâm. Ngáp một cái, thị nghĩ: thôi để lọ nước đó, ngồi nghỉ chút. Bởi vì thị vừa làm việc nặng từ trưa đến giờ. Mà hiếm khi có chỗ mát như thế này, thị thích lắm! Mát như quạt hầu vậy. Thị cởi áo ngồi tựa vào gốc chuối, tư thế không kín đáo lắm, nhưng thị chưa bao giờ biết lả lơi. Người vô tâm, không suy nghĩ xa xôi. Và cũng không ai ở đây. Chí Phèo đã đi đâu mất rồi, nếu hắn về cũng chỉ là say khướt và ngủ. Hắn ra làm gì đây, làm gì cũng vậy! Thị không sợ hắn, bởi vì thị chưa từng thấy ai làm hại thị bao giờ. Thật ra thì thị cũng không quan tâm. Trong đầu thị đã mờ mịt. Thị không thể ngồi mãi được.
Ngồi một lúc, thị nhận ra rằng: nếu tiếp tục ngồi thì sẽ ngủ. Nhưng thị đã ngủ rồi. Và thị nghĩ: thì ngủ thôi! Ở nhà cũng chỉ ngủ, ngồi đây cũng vậy. Bà cô đi bán hàng ít nhất cũng mấy ngày mới về. Thị cứ ngồi đây thôi. Và thị ngủ. Ngủ sâu và say sưa.
Chí Phèo vẫn còn mê mải và run rẩy. Bất ngờ hắn lại tiến lại gần thị Nở: lần đầu tiên từ khi quay về làng. Ban đầu, hắn đặt lọ nước ra xa, sau đó hắn ngồi xuống bên cạnh thị một cách im lặng.
Thị Nở giật mình. Thị Nở chỉ kịp giật mình thì thằng đàn ông đã ôm thị.... Thị cố gắng đẩy ra, mở mắt, tỉnh táo hẳn, nhận ra đó là Chí Phèo. Thị thở dốc, vật lộn với hắn với bước lúc hỗn loạn: “Ôi chết... Buông ra... Tôi kêu... Tôi kêu làng... Buông ra. Tôi sẽ kêu làng ngay bây giờ!” Đàn ông cười lớn. Tại sao thị lại kêu làng nhỉ? Hắn nghĩ chỉ có hắn mới kêu làng thôi; người ta lại kêu tranh của hắn, đột nhiên hắn la lên kêu làng.
Hắn kêu như một kẻ bị đâm, vừa kêu vừa đẩy thị xuống. Thị Nở mắt trừng ra nhìn. Thị Nở ngạc nhiên: tại sao hắn lại kêu làng? Mà hắn vẫn chưa dừng lại. May mắn là không có ai nghe tiếng hắn ở đây, khi hắn kêu làng thì cũng không ai quan tâm: họ chửi rủa rồi lại tiếp tục ngủ; hắn kêu làng cũng giống như ai đó buồn, hát bài ca buồn. Đáp lại hắn chỉ có lũ chó làm ồn trong xóm.
Thị Nở bất ngờ cười vui. Cô ấy vừa gầm lên vừa vỗ nhẹ vào lưng anh ta. Nhưng cái vỗ ấy dịu dàng, sau khi vỗ xong, bàn tay ấy lại ôm chặt lưng anh ta. Và họ cười với nhau...
Bây giờ họ ngủ bên nhau... Đứa bé no bú nên ngủ say. Họ ngủ như chưa từng được ngủ... Trăng vẫn soi sáng, trong trẻo... Ánh trăng chiếu xuống sông, sông biếc bao nhiêu vàng. Nhưng đến gần sáng, Chí Phèo đột nhiên đặt một tay xuống đất, ngồi dậy một nửa. Anh ta cảm thấy lo lắng, cơ thể run rẩy, như đã nhịn đói hai ba ngày. Nhưng bụng thì phình to, có vẻ như đau. Thật đau, đau mãi! Cứ cuộn cuộn lên. Mà trời lạnh lẽo. Mỗi khi có gió thổi, anh ta run rẩy. Anh ta muốn đứng dậy. Tại sao đầu nặng quá mà chân lại bẩy rẩy. Mắt anh ta chói lên. Bụng co lại, đau gấp đôi. Anh ta ói. Anh ta ói ba bốn cái. Ói mãi. Nếu tháo được ra thì dễ chịu hơn. Anh ta đặt một ngón tay vào miệng, lần này thì ói được. Trời ơi! Ói toàn nước dãi. Anh ta nghỉ một chút rồi lại đưa tay vào miệng. Lần này thì ói được nhiều hơn. Đến nỗi cô gái phải dậy. Thị Nở ngồi dậy và nhìn ngơ ngác. Ý thức nặng nề, cô ấy phải lâu mới nhớ ra và hiểu.
Bây giờ Chí Phèo đã ói xong. Anh ta mệt mỏi, vật người ra đất. Anh ta rên nhẹ nhàng: chỉ còn đủ sức rên nhẹ nhàng. Mùi hôi từ đống ói thoảng như mùi rượu, anh ta bất ngờ trở lại.
Thị Nở tiếp tục. Đặt một tay lên ngực anh ta (cô ấy mới suy nghĩ xong), cô ấy hỏi anh ta:
- Ói xong chưa?
Ánh mắt anh ta quay lên nhìn thị, chợt nhìn một cái rồi lại lập tức trở về tình thế cũ.
- Vào nhà nhé?
Anh ta giả vờ gật đầu. Nhưng cái đầu chỉ trơ nhìn im, chỉ có đôi mắt là lảo đảo lên.
- Vậy thì đứng lên đi.
Nhưng làm sao anh ta có thể đứng lên. Thị đặt tay vào nách anh ta, giúp anh ta nâng người lên. Rồi cô kéo anh ta đứng dậy. Anh ta lệch vào vai thị, hai người lảo đảo bước về lều.
Không có chiếc giường, chỉ có một cái chõng tre. Thị để anh ta nằm lên đó và đi thu gom tất cả những mảnh chiếu rách để đắp lên anh ta. Anh ta ngưng rên. Có lẽ anh ta đang ngủ. Thị cũng đang chờ mộng mơ ngủ. Nhưng trong nhà có quá nhiều muỗi. Thị nhớ mang áo về từ ngoài vườn để chắn muỗi. Thị ra vườn. Hai lọ nước nhắc thị phải đi kín nước, thị mải mốt mặc áo, giữ kín nước, rồi xách hai lọ nước về nhà.
Trăng chưa khuất, có lẽ trời vẫn còn đêm. Thị lên giường sẵn sàng ngủ. Nhưng thị nhớ lại sự kiện hôm qua kỳ lạ. Thị cười. Thị không cảm thấy buồn ngủ, và thị lăn ra lăn vào.
Khi Chí Phèo mở mắt, đã sáng rồi. Mặt trời đã lên cao, và bên ngoài chắc là nắng rực rỡ. Tiếng chim hót từ ngoài kia cho biết điều đó. Nhưng trong chiếc lều ẩm vẫn còn mờ nhạt. Ở đây, người ta thấy chiều mỗi khi trưa tới và đêm về, nhưng bên ngoài vẫn còn sáng. Chưa bao giờ Chí Phèo nhận ra điều đó, vì chưa bao giờ hắn tỉnh dậy sau khi say như thế này.
Nhưng bây giờ hắn tỉnh. Hắn cảm thấy như tỉnh dậy, miệng đắng và lòng buồn. Cơ thể mệt mỏi, chân tay lì đòn, có lẽ do say rượu, hắn có chút run. Bụng hắn cảm thấy nôn nao, hắn sợ say rượu như người bệnh sợ cơm. Âm thanh vui vẻ của chim hót bên ngoài! Tiếng cười và nói chuyện của những người đi chợ. Những tiếng đập của thuyền chài và tiếng gõ mái chèo. Những âm thanh quen thuộc mà hôm nay hắn mới nghe được... Thật là buồn!
Những tiếng đó hôm qua không bao giờ thiếu. Nhưng hôm nay, hắn mới nhận ra... Chao ôi, thật buồn!
- Hôm nay bán được bao nhiêu vải vậy?
- Chỉ bán được ít hơn ba xu, dì ạ.
- Vậy thì chẳng lẽ lại không có gì cả!
- Đúng vậy. Nhưng liệu rằng ta có nên tiếp tục chơi không?
Chí Phèo nghe thấy một người phụ nữ hỏi một người phụ nữ khác về việc bán vải ở Nam Định. Anh ta cảm thấy buồn bã và nôn nao, vì câu chuyện nhỏ đó gợi cho anh ta một ký ức xa xôi. Có lẽ, đã từng có một thời anh ta mong muốn có một gia đình bé nhỏ. Chồng cày ruộng, vợ dệt vải, và họ nuôi một con lợn để làm vốn. Họ mua được một ít đất làm ruộng khi khá giả hơn.
Khi tỉnh dậy, anh ta nhận ra rằng mình đã già mà vẫn cô đơn. Thật đáng buồn! Liệu đó có phải là sự thật không? Anh ta đã qua tuổi thanh xuân... Dù sao đi nữa, tuổi này không phải là thời điểm mà mọi người bắt đầu tìm kiếm sự ổn định. Anh ta đã đến lúc phải đối mặt với tuổi già. Trong số những người như anh ta, họ đã chịu đựng nhiều khổ đau, nhiều thử thách mà không bao giờ bị ốm, nhưng một cơn ốm có thể là dấu hiệu của sự suy sụp của cơ thể. Nó như một cơn bão cuối thu cho thấy rằng mùa đông đã đến. Chí Phèo cảm thấy như đã trước nhìn thấy tuổi già của mình, cảm thấy cô đơn, đói rét và ốm đau, nhưng cô đơn lại là điều đáng sợ hơn cả đói rét và ốm đau.
May mắn có Thị Nở ở đó. Nếu không có thị, anh ta sẽ cô đơn mãi mãi, có lẽ sẽ khóc. Thị Nở mang ra một cái rổ, bên trong có một nồi cháo nóng hổi. Đêm qua, thị thức trắng một lúc và nảy ra ý nghĩ rằng: thằng đó kể ra cũng đáng thương, không có gì đáng thương bằng cảm giác đau ốm một mình. Thị tự hào vì đã cứu sống một người. Thị cảm thấy như yêu anh ta: đó là tình yêu từ người làm ơn. Nhưng cũng có tình yêu từ người nhận ơn. Người như Thị Nở khó quên. Vì thế, thị nghĩ: rời bỏ anh ta lúc này sẽ là một sự phụ bạc. Dù sao, họ đã chia sẻ giường trải. Chia sẻ giường trải giống như 'vợ chồng'. Tiếng 'vợ chồng', nghe thật là lạ và ý nghĩa. Đó là điều mà con người khao khát, dù không bao giờ thừa nhận.
Thị chỉ biết rằng cô muốn gặp Chí Phèo, gặp anh ta và nhắc lại sự việc đêm qua, có lẽ sẽ làm anh ta buồn cười. Gớm! Làm sao có thể có kẻ nào lại lì lợm như vậy? Người ta ngồi đó mà dám quẹo lên ngay, dường như lại lớn lên khi người ta gọi bé, nó lại trở nên to hơn. Nhưng có vẻ nó ngây ngô. Thằng đó, người trời không giết, lại còn sợ ai mà không dám kêu. Nhưng đúng là khó chịu. Cảm giác đó thật khó chịu. Hôm nay rất mệt mỏi. Phải cho anh ấy ăn gì đó mới được. Khi bị ốm như vậy, chỉ có thể ăn cháo hành. Khi đổ mồ hôi, cảm giác nhẹ nhõm ngay lập tức... Vậy là đã sớm, anh ấy đã chạy đi mua gạo. Còn hành, nhà Thị may mắn vẫn còn.
Thị đưa cái rổ đó ra cho Chí Phèo.
Anh chàng này thật là ngạc nhiên. Sau sự ngạc nhiên đó, anh ta cảm thấy như đôi mắt của mình ướt đẫm. Lần đầu tiên, anh ta được một người phụ nữ cho. Trước đây, anh ta luôn phải uy hiếp hoặc giật cướp. Anh ta phải làm cho người ta sợ. Anh ta nhìn vào bát cháo bốc khói mà cảm thấy mơ hồ. Thị Nở chỉ nhìn anh ta, rồi lại cười toe toét. Thị Nở trông thật đáng yêu. Tình yêu tạo ra sự đáng yêu. Anh ta cảm thấy vừa vui vẻ vừa buồn bã. Và có một sự hối hận nào đó. Có lẽ là như vậy. Con người thường hối hận về tội lỗi khi họ không còn đủ sức để tiếp tục tội lỗi. Thị Nở thúc anh ta ăn nhanh. Anh ta cầm bát cháo lên miệng. Cháo thơm phưng phức! Chỉ cần mùi khói thổi vào mũi cũng làm anh ta nhẹ nhõm. Anh ta ăn một ngụm và nhận ra rằng: những người chưa bao giờ ăn cháo hành không biết rằng cháo thật ngon. Nhưng tại sao anh ta mới nếm thử vị của cháo đến bây giờ?
Hắn tự hỏi và tự trả lời: vì ai mà nấu cháo cho hắn ăn chứ? Hắn chưa bao giờ được một người phụ nữ chăm sóc. Hắn nhớ đến 'bà ta', người thường bắt hắn phải làm những việc không đáng. Hồi đó, hắn mới hai mươi tuổi, tuổi mà người ta không phải là đá nhưng cũng không phải toàn thịt. Người ta không thích những gì mà họ khinh. Và bị một người phụ nữ gọi đến nhà làm việc, hắn thấy nhục hơn là thích, thậm chí còn sợ. Từ khi biết rằng vợ chủ sai hắn làm một việc không đúng, hắn cảm thấy run. Không làm thì không được: trong nhà, quyền lực thuộc về phụ nữ. Hắn không có quyền lực gì! Bà ta phát cáu vì hắn quá thật thà. Bà nói với hắn rằng: 'Con trai hai mươi tuổi mà lại giống như ông già'. Hắn giả vờ không hiểu. Bà nói: 'Tao gọi mày đến để làm việc gì, chỉ để bóp chân sao?...' và đâm mắng vào mặt hắn. Hắn chỉ cảm thấy nhục, không phải yêu đương gì. Không, hắn chưa bao giờ được một người phụ nữ nào yêu mình. Vì thế, bát cháo hành của thị Nở khiến hắn nghĩ nhiều. Hắn có thể tìm bạn, sao lại chỉ tạo ra kẻ thù?
Sau khi húp xong bát cháo, thị Nở lại đưa cho hắn một bát nữa. Hắn đổ mồ hôi. Mồ hôi chảy ra trên đầu, trên mặt, những giọt mồ hôi lớn như giọt nước. Hắn lau tay áo, cười rồi lại ăn. Hắn càng ăn, mồ hôi càng ra nhiều. Thị Nở nhìn hắn, lắc đầu thương hại. Hắn cảm thấy như một đứa trẻ. Hắn muốn làm nũng với thị như với mẹ. Ôi, hắn thế mà hiền lành, ai dám nói đó là Chí Phèo đã đâm đầu, đập mặt người? Đó chỉ là bản tính của hắn, thường bị lấp đi. Hay là trận ốm đã thay đổi cả tâm lý và thể lý của hắn? Những người yếu đuối thường hiền lành. Muốn ác, phải là kẻ mạnh. Hắn không còn mạnh mẽ nữa. Và có lúc hắn lo lắng. Hắn chỉ sống bằng cách dọa nạt và giật cướp. Nếu không còn sức để làm điều đó, thì sao? Hắn chỉ mạnh mẽ khi liều lĩnh. Nhưng hắn cảm thấy sẽ có một ngày không thể liều lĩnh nữa. Đó là khi mọi thứ nguy hiểm! Hắn muốn trở nên lương thiện, muốn làm hòa với mọi người! Thị Nở sẽ dẫn dắt hắn. Nếu thị có thể sống hòa thuận với hắn, tại sao người khác lại không thể? Họ sẽ chấp nhận hắn vào xã hội bằng phẳng và thân thiện của những người lương thiện... Hắn nhìn thị Nở, như thăm dò. Thị vẫn im lặng, cười nhẹ, hắn cảm thấy nhẹ nhõm. Hắn nói với thị:
- Cứ như này thì tốt quá phải không?
Thị không trả lời, nhưng cái mũi đỏ của thị như càng bạnh ra. Hắn thấy thế cũng không tồi. Bằng một giọng nói và vẻ mặt phong tình, hắn nói với thị:
- Hoặc mình sống chung với nhau, có vẻ vui hơn.
Thị nhăn mày. Người ta thường xấu khi yêu cũng nhăn mày. Hắn thích thấy thị cười sáng. Khi tỉnh táo, hắn thấy thị cười nhẹ nhàng. Thị Nở đánh giá cao điều đó. Và sau mấy bát cháo, hắn cảm thấy rất hạnh phúc. Hắn đùa với thị Nở, làm thị nhảy lên vui vẻ. Và hắn nói:
- Em nhớ gì về hôm qua không?
Thị nhẹ nhàng vỗ hắn, tỏ ra không vui vẻ. Mặc dù xấu nhưng vẫn dễ thương khi buồn. Hắn cười lớn, và muốn khiến thị cảm thấy xấu hổ hơn, hắn véo thị một cái vào đùi. Lần này, thị không chỉ nhảy lên mà còn kêu to. Thị ôm hắn và giằng co. Họ biểu hiện tình cảm với nhau, không cần phải hôn. Ai cũng biết rằng hôn nhau chỉ là hình thức. Và còn có nhiều cách khác để thể hiện tình cảm...
Họ sẽ trở thành một cặp rất đẹp đôi. Họ nhận ra điều đó và sẽ cưới nhau. Trong năm ngày tới, thị ở nhà hắn suốt ngày đêm, trừ khi đi kiếm tiền. Hắn giả vờ uống rượu ít, để không phải tốn tiền và để yêu nhau tỉnh táo. Phụ nữ không cần uống rượu để say, họ có thể làm điều đó với tình yêu. Và hắn say mê thị. Nhưng thị là người khá ngốc. Vào một ngày thứ sáu, thị nhớ rằng thị có một người bạn cô đang chờ đợi. Người ấy sẽ trở về trong ngày hôm đó. Thị tự nhủ: đừng yêu để rồi hỏi han cô ấy.
Khi thị hỏi, bà già cười. Bà tưởng hắn đùa. Nhưng bà nhớ rằng hắn thường đùa. Bà trở nên hoảng sợ. Bà xấu hổ với ông cháu. Có lẽ bà thấy thương tâm. Bà nghĩ về cuộc sống cô đơn của mình, không có người chồng. Bà cảm thấy rất buồn. Bà giận dữ, giận dữ với ai đó. Nhưng sau đó, bà đổ lỗi cho cháu. Người phụ nữ tốt đức, nhìn thấy cháu bà như vậy, đáng trách thay! Thật đáng tiếc. Đã qua ba mươi, nhưng vẫn chưa trót yêu. Ai lại đi lấy chồng ở độ tuổi đó. Ai lại chọn một người chỉ biết ăn xin. Ôi trời ơi! Thật là đau lòng! Hỡi ông cháu nhà bà! Bà than rủa như một người mẹ dại. Bà la to vào mặt ông cháu ba mươi tuổi chưa trót đời. Bà nói với hắn:
- Nếu có thể chịu đựng đến tuổi như này thì hãy chịu đựng hết; ai lại muốn kết hôn với thằng Chí Phèo!
Thị nghe thấy như vậy mà nổi giận. Nhưng thị biết cãi lại ông bà làm sao? Ông bà ấy có quyền nói như vậy, bởi ông bà ấy đã năm mươi tuổi mà vẫn chưa lấy chồng. Thị biết phản đối nhưng không biết làm sao. Vì không thể phản đối, thị tức giận nổi lên mạnh mẽ. Thị tức lắm! Thị muốn trút tức giận lên một ai đó. Thị đi đến nhà hắn để làm vậy. Thị thấy hắn đang uống rượu và chửi rủa thị về việc nhà thị lâu quá. Hắn không thích chờ đợi; nếu phải chờ, hắn lại uống rượu để quên đi. Uống rượu xong, phải chửi rủa, quen mồm rồi! Nhưng hắn làm gì mà chửi thị? Và hắn có quyền gì để chửi thị? Ôi, thị tức giận quá! Thị đạp chân xuống đất, rồi nhảy lên như thú vật. Hắn thích thú, lắc đầu cười. Lại cười! Hắn chế giễu thị, trời ơi! Thị tức giận, trời ơi là trời! Thị đặt hai tay vào hông, nghiêng người về phía trước, và nói tất cả những lời xấu của ông bà. Hắn suy nghĩ một chút rồi dường như hiểu. Hắn trở nên bất ngờ. Một lát sau, hắn cảm nhận được hơi thở của một cái bát cháo hành. Hắn ngồi im không nói gì. Thị trút hết tức giận. Mũi đỏ nghẹt lại sau đó lại bật ra. Thị cười phô trương. Thị quay lưng rồi đi. Hắn ngạc nhiên đứng lên gọi lại. Nhưng không có ai muốn quay lại! Còn muốn đánh thì sao? Hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay thị. Thị đẩy ra, lại đấm hắn thêm một cái. Hắn ngã xuống sàn. Khi hắn ngã, hắn phải nói: không lạ lẫm gì. Hắn nhặt một viên gạch và đập vào đầu. Nhưng dường như hắn chưa say. Vì hắn nghĩ rằng việc đập đầu ở đây chỉ là làm tổn thương; đập đầu ở đây để kêu làng. Muốn đập đầu, phải say sưa. Không có rượu, làm sao có thể chảy máu? Phải uống thêm một chai. Và hắn uống. Nhưng tức giận càng uống càng tỉnh táo. Tỉnh táo, chao ơi, buồn! Rượu không còn dư vị say sưa. Hắn ôm đầu khóc ầm ĩ. Rồi lại uống. Hắn đi ra với một con dao ở thắt lưng. Hắn lầm bầm: “Tôi sẽ giết nó!”. Nhưng hắn tiếp tục đi thẳng. Điều gì đã khiến hắn quên rẽ vào nhà thị Nở? Những người điên và người say rượu không bao giờ làm những điều mà khi bước ra khỏi nhà họ không có ý định làm.
Trời nắng chói chang, đường vắng vẻ. Hắn tiếp tục đi, tiếp tục chửi rủa, tiếp tục đe dọa “nó”, và tiếp tục đi. Giờ đây đến nhà cụ Bá. Hắn bước vào. Nhà trống không ai, chỉ có cụ Bá đang nằm nghỉ trưa. Nghe tiếng hắn, cụ cảm thấy tức giận. Thật ra cụ cũng tức giận. Bởi vì cụ cảm thấy đầu nhức. Cụ muốn một bàn tay mát mẻ xoa đầu. Có lẽ, cụ chỉ muốn bà Tư đừng đi lâu như thế. Đi lâu như thế, không biết đi đâu? Sao bà ấy cứ trẻ mãi! Gần bốn mươi rồi mà còn trẻ trung. Còn trẻ trung quá đi! Cụ năm nay đã trên sáu mươi. Già yếu quá, thấy đắng lòng. Già như vậy thì bà ấy cũng nên già đi. Bà ấy lại trẻ, lại trẻ trung, lại xinh đẹp như một cô gái hai mươi tuổi, nhưng lại rất lanh lợi. Nhìn thì yêu nhưng lại ghen tỵ. Giống như khi nhai miếng thịt bò lựt sựt khi đã mất hết răng. Mắt của bà ấy, miệng của bà ấy rất duyên, nhưng trông lại rất đắng. Cười với điều gì, tít mắt, môi nhăn nhó. Nhưng ghét những người đàn ông trẻ tuổi, không xứng đáng làm con bà, nhưng lại vui vẻ. Chúng vui vẻ nhưng chỉ toàn lời thô tục, không nghĩ đến địa vị, người ta vô tâm quá! Tức cười! Cụ muốn tất cả những thằng trai trẻ đó vào tù... Trong những lúc như thế, một người thông minh cũng không thể bình tĩnh. Nhất là khi trông thấy một thằng chỉ đến để xin tiền uống rượu như Chí Phèo. Dù vậy, cụ vẫn móc sẵn năm hào. Để sẵn sàng đuổi nó đi ngay. Nhưng sau khi móc ra, cụ cũng phải nói một câu để làm cho lòng nhẹ nhõm:
- Đấy là Chí Phèo à? Thôi rồi vậy, tôi không phải là cửa hàng đâu.
Sau đó, ném năm hào xuống đất, cụ nói với hắn:
- Mang đi và làm việc hữu ích đi. Đừng chỉ biết đòi người khác mãi à?
Hắn nhấn mạnh và chỉ vào mặt cụ:
- Tôi đâu phải đến đây để xin năm hào.
Nhìn thấy hắn tức giận, cụ buộc phải nói nhẹ nhàng:
- Được rồi, lấy đi, tôi không cần nữa.
Hắn nhìn lên, tỏ ra kiêu ngạo:
- Tôi đã nói rồi, tôi không đòi tiền.
- Tốt! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Vậy anh muốn gì?
Hắn nói mạnh mẽ:
- Tôi muốn trở thành người có lòng lương thiện!
Bá Kiến cười mỉm:
- Ôi, thế nào! Tôi chỉ muốn anh trở nên tốt hơn cho mọi người.
Hắn lắc đầu:
- Không thể! Làm thế nào để tôi trở nên lương thiện? Làm sao để xoá bỏ những vết thương trên gương mặt này? Tôi không thể trở thành người tốt nữa. Biết không? Chỉ có một cách... biết không?
Hắn rút ra con dao và lao vào. Bá Kiến giật mình, Chí Phèo đâm dao. Bá Kiến kịp kêu một tiếng. Chí Phèo vừa đâm vừa kêu to. Hắn gọi cứu mạng, nhưng không ai vội tới. Khi mọi người đến, hắn nằm giữa đường, máu chảy đầm đìa. Mắt hắn mở to, miệng còn cố gắng nói, nhưng không thể.
Cả thôn Vũ Ðại reo lên. Dân đồn đại về sự kiện đó. Có người mừng thầm. Không thiếu kẻ mừng mắt. Có người bày tỏ: “Ông Trời thật công bằng!”. Người khác nói rõ ràng: “Hai thằng ấy chết thì không ai tiếc! Thật ra bọn chúng nó tự giết nhau, không cần đến sự can thiệp của ai”. Mừng nhất là bọn hào lý trong thôn. Họ đổ đến hỏi thăm, nhưng thực ra chỉ để nhìn thấy lý Cường bằng cái nhìn thoả mãn và thách thức. Ðội Tảo, không cần phải kín đáo, nói lớn tiếng ngay trên chợ, trước mặt đông người: “Thằng cha chết rồi, thằng con trong lớp này không tránh khỏi việc bị người ta chê trách”. Ai cũng hiểu “người ta” đó chính là ông ta. Bọn trẻ con thì nói nhỏ: “Thằng mụ già ấy chết rồi, cũng đáng mừng cho anh mình”. Những người biết điều thì hay nghi ngờ, họ thầm nói: “Tre già cứ mọc thêm, thằng ấy chết rồi, còn thằng khác, chúng ta cũng không được lợi gì...”.
Bà cô thị Nở chỉ vào mặt cháu và cười khẩy:
- May cho cuộc đời nhà con, ơ con ơi. Chẳng phải chịu khổ với ông Chí Phèo nữa.
Thị cười và nói thoáng qua:
- Hôm qua làm bản biên bản, lý Cường nghe nói tốn kém gần một trăm. Thực ra là tiền bạc mất mát.
Nhưng thị lại nghĩ trong lòng:
- Có khi nào nó bỗng dưng hiền như đất không nhỉ.
Và nhớ lại những lúc ăn nằm cùng hắn, thị nhìn trộm bà cô, rồi nhanh chóng nhìn xuống bụng:
- Nói ngu, nếu mà mình mang thai, giờ này nếu hắn chết rồi, thì sống sao được?
Bất ngờ thị thấy hiện lên trong đầu một cái lò gạch cũ đã bỏ không, xa nhà cửa và hoang vắng...