I. Một cái nhìn tổng quan về Nguyễn Khải.
- Nguyễn Khải (1930 - 2008), tên thật là Nguyễn Mạnh Khải, sinh ra ở Hà Nội nhưng đã từng sống ở nhiều địa điểm khác nhau.
- Vào năm 1947, ông tham gia vào đội tự vệ chiến đấu tại thị xã Hưng Yên, sau đó gia nhập quân đội, làm y tá và sau đó làm báo.
- Năm 1951, ông tham gia công tác tuyên truyền tại Phòng chính trị Quân khu III.
- Trong năm 1952, ông giữ vị trí Thư ký tại báo Chiến sĩ Quân khu III.
- Từ năm 1956, ông làm việc tại biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội và là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam.
- Sau năm 1975, ông chuyển đến sinh sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Khải bắt đầu sáng tác văn từ năm 1950.
- Trong năm 1951, ông nhận được giải khuyến khích về văn xuôi trong cuộc thi văn nghệ diễn ra từ 1951 đến 1952.
- Các tác phẩm nổi bật: Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960), Một chặng đường (truyện dài, 1962), Họ sống và chiến đấu (ký sự, 1966), Hòa vang (bút ký, 1967), Đường trong mây (tiểu thuyết, 1970)...
II. Giới thiệu về Một người Hà Nội
1. Bối cảnh sáng tạo
- Tác phẩm truyện ngắn Một người Hà Nội ra đời vào năm 1990.
- Truyện này đã phát hiện ra vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn, tính cách của người Việt qua mọi biến cố lịch sử, những thăng trầm của quốc gia.
2. Sơ đồ
Bao gồm 5 phần:
- Phần 1. Từ đầu tới “dính liền nhiều có khi lại rắc rối”: Giới thiệu về cô Hiền.
- Phần 2. Tiếp theo tới “rút lui ngay”: Cô Hiền trong thời kỳ hòa bình lặp lại.
- Phần 3. Tiếp theo tới “đại khái như vậy”: Cô Hiền trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ.
- Phần 4. Tiếp theo tới “đã mấy tháng rồi”: Cô Hiền sau chiến thắng mùa xuân 1975.
- Phần 5. Phần còn lại: Cô Hiền trong những năm thời kỳ đổi mới.
3. Tóm lược
Cô Hiền - một người Hà Nội, một “viên ngọc vàng” của thủ đô hàng nghìn năm văn hiến. Cô sinh ra trong một gia đình giàu có, lương thiện và được phúc trời ban tặng vẻ đẹp và sự thông minh. Trong tuổi trẻ, cô đã mở một góc văn học, gặp gỡ và trò chuyện cùng những tâm hồn văn chương trí thức. Lập gia đình, cô lấy một giáo viên Tiểu học làm chồng, khiến nhiều người ngạc nhiên. Suốt thời kỳ kháng chiến chống Pháp, cô và chồng vẫn sống một cuộc sống nền nếp, lịch sự ở Hà Nội. Khi con trai lớn vào chiến trường, cô không ngăn cản. Con thứ hai thi đỗ điểm cao, nên cậu được giữ lại ở nhà. Năm 1975, con trai lớn trở về với quân hàm thượng úy. Cô Hiền vẫn tổ chức buổi ăn bạn bè hàng tháng như thường lệ. Mặc dù tôi đã chuyển đến Sài Gòn sinh sống, nhưng mỗi khi về Hà Nội, tôi vẫn ghé thăm cô. Tôi biểu hiện sự buồn bã về lối sống giảm giá trị của người Hà Nội hiện nay. Cô Hiền kể cho tôi nghe câu chuyện về cây si bị gãy gốc do bão tại đền Ngọc Sơn.
Một người Hà Nội
Nghe đọc truyện ngắn Một người Hà Nội:
1.
Chúng tôi gọi là cô, cô Hiền, là chị em ruột của mẹ già tôi. Năm 1955, tôi trở về Hà Nội sau kháng chiến, thị trấn nhỏ bé hơn, trống vắng hơn, chỉ còn lại vài gia đình họ hàng vì chồng và con đều tham gia cách mạng. Cô Hiền vẫn ở lại, dù chú cô vẫn ở Hà Nội suốt chín năm đấu tranh chống Pháp, nhưng các con cô vẫn nhỏ, không liên quan gì đến chính trị 'bên ngoài'.
Họ ở lại vì không thể rời xa Hà Nội, không thể khởi nghiệp ở nơi khác. Chú tôi làm nghề giáo dục, một giáo viên Tiểu học, là người quan trọng trong mọi thời đại, kể cả thời đại cộng sản khi việc khuyến khích trẻ em đi học là rất quan trọng, học văn hóa và học cách làm người. Chính trị là vấn đề của những người trưởng thành, học sinh giỏi và sinh viên đại học.
Tính thế vẫn như vậy nhưng tôi vẫn lo lắng, mặc dù không có lý do để lo lắng, nhưng tôi vẫn nghi ngờ gia đình này sẽ gắn bó khó khăn với chế độ mới và chế độ mới cũng không thể tin tưởng được họ. Bởi vì họ sống trong một căn nhà quá lớn, nằm ngay trên một con đường lớn, hướng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn. Với người lao động, sống trong nhà rộng là một tội ác, trong khi cán bộ và gia đình họ phải sống trong các khu nhà tập thể chật hẹp, đôi khi phải ở dưới gầm cầu thang của nhà bạn bè.
Quần áo của họ cũng quá sang trọng. Trong mùa đông, ông mặc áo ba lỗ, đi dép da, bà mặc áo lông cổ, đi giày nhung có trang trí hạt cườm. Còn bàn ăn thì không giống như bình thường. Bàn được trải một tấm khăn trắng, giữa bàn có một bình hoa nhỏ, đĩa được đặt lên bát, đũa được bọc trong giấy bọc và mỗi người ngồi ở vị trí đã được quy định.
Gia đình tôi thì ăn uống đơn giản hơn, chúng tôi ngồi xung quanh chiếc mâm nhôm, thức ăn thường được múc ra từ nồi và để trên đĩa, hoặc đơn giản là để nguyên trong nồi. Nồi lớn được đặt ở giữa mâm, nồi nhỏ được đặt ở bên cạnh mâm, chỉ cần mỗi người sục muối vào và sục đũa vào, không cần phải tuân thủ theo bất kỳ quy tắc nào cả. Ăn chỉ là để sống, để làm việc, không phải là để thể hiện sự trang trọng của tầng lớp... tư sản.
Tôi không dám phát biểu nhưng vợ chồng tôi thường nói với nhau: “Cô Hiền chính là người tư sản thực sự. Một khi đã là tư sản thì không thể tin tưởng. Việc mình biết mình biết, việc cô mặc cô mặc, dính líu nhiều có khi lại gây rắc rối”.
2.
Là người gốc Hà Nội, không ai không biết đến sự giàu có của cụ Tú ở cuối Hàng Bạc, gần Hàng Mắm. Trước kia, đó là bến sông, nơi mành Nghệ An đổ nước mắm và đỗ trên bến, sau đó được đem lên nhà. Nước mắm được đổ vào các kiệu và chôn trong đất, mỗi lần thay thế, phải lau chùi sạch sẽ. Một dãy nhà chôn nước mắm và một gian nhà để tiền, tiền kẽm, với quan tiền kẽm được vác vai.
Cụ Tú đã học tài khoa sau khi đã lớn tuổi, sau đó bỏ bút lông để theo bút sắt. Cụ Tú viết thơ, ăn mặc và giao tiếp theo kiểu nhà quan, dạy con cái cũng theo cách nhà quan là phần hào nhoáng của gia đình. Nhưng phần cốt lõi, phần được mọi người trọng thực, những gian nhà kẽm đều là do vợ xây dựng. Bà chỉ kinh doanh nước mắm. Thơ của cụ Tú được khen ngợi chủ yếu vì hương vị của nước mắm Nghệ, hương vị của tiền từ các kiệu nước mắm, mà con cháu vẫn chơi đùa sau này.
Bà Tú Dâu là em ruột của bà ngoại tôi và là chị ruột của mẹ cô Hiền. Cả ba chị em dường như đã lớn lên ở Hà Nội cùng một thời kỳ, thời kỳ Pháp mới, khi phố phường vẫn là nhà lá, nhưng chỉ có bà Tú là nổi tiếng hơn cả. Nhìn vào những tấm ảnh chụp từ đầu thế kỷ, đầy cảm động. Các cụ đều không đẹp, khuôn mặt vuông trán ngắn, mắt hẹp và dài, hơi xếch một chút, gò má cao. Cả ba cụ đều theo mốt của thời đại đó: đội khăn vấn, áo tứ thân làm từ hàng tơ dệt mỏng gọi là xuyến, mặc quần lĩnh Bưởi và đi giày hài. Mặc dù ba bà đều quê mình nhưng sinh ra một loạt con gái theo phong cách mới. Vào cuối những năm ba mươi, mẹ già tôi vẫn để răng đen, nhưng đã tô son, đeo kiềng cổ và vòng tay bằng vàng nặng nề.
Vào thời đó, cô Hiền đã cạo trắng răng và uốn tóc, mặc quần áo màu đồng nhất, hoặc toàn bộ đen, hoặc toàn bộ trắng. Còn phụ kiện thì đã biết sử dụng đồ ngọc, bạch kim và hạt ngọc trai. Cũng vào thời đó, một số gia đình có chức vụ cao cấp và quan trọng, cũng như một số nhà buôn tơ lụa, thuốc lá, kim hoàn, cho con gái lớn mở một phòng tiếp khách văn học, được gọi là salon littéraire để mời một số văn sĩ mới nổi và sinh viên đại học. Tiếp khách văn học là điều cần thiết, trong khi các quan lại sẽ trở thành quan đốc, quan trạng, quan huyện là ước mơ của mọi người theo phong cách của Tự lực văn đoàn.
Nhà của cô Hiền cũng là một salon nổi tiếng, không phải vì gia đình giàu có hay sang trọng mà là vì có một cô con gái xinh đẹp, thông minh, biết cách khoe sự duyên dáng của mình qua những câu chuyện dễ thương. Tôi biết nhiều về các cuộc trò chuyện về mấy ông Lan Khai, Đái Đức Tuấn tức Tchya, Phùng Tất Đắc, Lê Văn Trương, Hồ Dzếnh... là do cô tôi kể lại. Ông Trương thậm chí còn nhờ cô đọc bản thảo của nhiều tác phẩm chưa thành danh, một phần vì tin vào sự thẩm định văn học của cô, một phần vì ông quá bận: bận viết, bận hút thuốc và bận kiếm tiền.
Tôi hỏi đùa: 'Ông Nam Cao là do cô tìm thấy đúng không?'. Cô trả lời rất nghiêm túc: 'Ông Lê Văn Trương phát hiện ra. Do ông đang ngồi hút thuốc phiện ở nhà Trác Vỹ, lúc nào cũng kề bên một cuốn sách để kê lên đầu, rồi vô tình lấy ra một quyển để đọc, đó là cuốn sách có tựa đề 'Cái lò gạch' viết bởi một tác giả hoàn toàn không tên tuổi'.
3.
Sống ở Hà Nội trong năm đầu giải phóng cùng với tuổi trẻ của chúng tôi, lúc ấy chỉ mới năm hoặc sáu tuổi, là vô cùng vui vẻ. Chín năm xa phố phường, xa ánh sáng đèn điện, không được đi xem phim hoặc cải lương, không được thăm một chợ đông người vào ban ngày, nhưng bây giờ mỗi ngày đều ở Hà Nội, mỗi đêm đều ở Hà Nội, mãi mãi ở Hà Nội.
Chúng tôi thì vui vẻ, nhưng tại sao những người sinh sống ở Hà Nội chưa hạnh phúc thật sự nhỉ? Họ đang cố gắng thích nghi với thời đại mới, cách sống, cách làm việc, thậm chí cả cách nói chuyện. Một lần tôi đến thăm cô chú, đứa em trai đã 14, 15 tuổi chạy ra mở cửa và la lên: 'Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến'. Cô chú tôi nhăn mặt nghiêm túc: 'Phải gọi là anh Khải, hiểu không?'. Đứa em trai cũng đi đến, nắm tay tôi và hỏi vô tư: “Tại sao chủ nhật trước anh không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi”. Cô chú tôi thở dài và quay đi. Tôi nói: “Đất nước giành được độc lập thì vui quá nhỉ?”. Cô chú trả lời: “Vui quá mức, nói quá nhiều, phải suy nghĩ về cuộc sống chứ?'.
Theo cô chú, chính phủ can thiệp quá nhiều vào cuộc sống của người dân, từ việc tập thể dục mỗi sáng, tổ chức hoạt động văn nghệ mỗi tối, quyết định cách sống của vợ chồng, tình yêu của trai gái, thậm chí cả tiền lương cho những kẻ không sản xuất gì. Sau này, tổ dân phố đã tự giác không nên nuôi người không cần thiết. Có nhà trước đây có hai người ở, một anh đầu bếp và một chị phụ bếp. Chị phụ bếp là vợ của anh đầu bếp, cứ mỗi khi sinh đứa con mới thì đưa về quê để bà ngoại chăm sóc.
Sau khi nước giải phóng, cô chú tôi đã gửi anh chồng về quê làm ruộng, nhưng chị vú vẫn ở lại vì cả hai cần phụ thuộc vào nhau. Mỗi ngày, khi chị đi chợ, luôn có cán bộ theo dõi, hỏi han: “Chị có bị áp bức không? Tiền công có được trả đúng lúc không? Thái độ chính trị của họ ra sao?”. Chị vú tức giận: “Nếu họ không làm việc công bằng, tôi đã rời đi từ lâu mà không cần anh phải nhắc nhở”. Chị kể lại câu chuyện đó cho cả nhà nghe và bình luận: “Cách mạng này chỉ quan tâm đến những vấn đề nhỏ nhặt!”. Hiện tại, chị vú đã qua đời sau khi về quê được bốn năm. Chị chăm sóc con cho bà cô tôi từ khi 19 tuổi cho đến khi 45 tuổi mới trở về quê, tình thân như họ hàng ruột. Anh chồng không tái hôn vì các con đã trưởng thành. Anh làm chủ nhiệm một cửa hàng mua bán của xã, ngày giỗ ông chú và ngày tết đều mang đến gạo, đậu xanh, miến và rượu, tất cả đều là tự làm, để biếu cô và các em.
4.
Trong hồ sơ của cán bộ, không ghi tên cô Hiền. Dù cô xa xôi và có thể không tham gia vào cuộc đại bác, nhưng lại là người giàu có, gặp nhiều phiền toái. Tôi tin rằng cô phải thuộc giai cấp tư sản vì gương mặt của cô rất đặc biệt, đặc biệt là giai cấp tư sản, và càng già càng rõ. Tôi hỏi cô:
- Tại sao cô không học hỏi từ việc cải tạo, cô giữ bí mật tài sản đến thế?
Cô Hiền cười tươi:
- Tôi chưa đạt đủ tiêu chuẩn.
Tôi cũng mỉm cười:
- Vẫn chưa đủ đâu.
Cô nói một cách bình tĩnh:
- Tao có vẻ ngoại hình phong trần, lối sống phong trần, nhưng không bao giờ bóc lột ai, vậy thì sao mà trở thành tư sản được.
Tôi im lặng vì điều đó là sự thật. Cửa hàng của cô chỉ bán duy nhất một loại hàng: hoa giấy, đủ loại hoa giấy và các lẵng hoa làm từ tre, cộng thêm một ít tem và sổ tay kỷ niệm. Hoa làm rất đẹp, giá bán cao, nhưng cô chỉ phải nộp thuế rất ít, chỉ có một mình cô làm, các con chỉ giúp chạy mua nguyên liệu hoặc làm phần cuống lá vào dịp Tết dương lịch và Tết nguyên đán.
Nhiều bà bạn của cô cũng tỏ ý nghi ngờ: “Nhìn bà như người giàu mà không cần học tập là kỳ lạ nhỉ?”. Cô tôi đáp nhẹ nhàng: “Các bà không biết nhưng chính phủ lại biết rõ”. Đương nhiên là cô thông minh hơn các bà bạn của mình và cũng hiểu biết hơn ông chồng. Sau khi Hà Nội giải phóng, cô vẫn sở hữu hai căn nhà, một căn đang sử dụng và một căn ở Hàng Bún cho thuê. Ông làm giáo viên, con đông, đủ ăn là may, có tiền dư để mua nhà là nhờ ông viết sách giáo khoa cấp tiểu học, được Nhà Xuất bản Giáo dục Nhà nước công nhận và phát hành.
Năm 1956, cô bán căn nhà ở Hàng Bún cho một người bạn từ chiến trường về. Một năm sau, một cán bộ đến hỏi về tình hình nhà ở và nhắc đến căn nhà ở Hàng Bún. Cô trả lời mạnh mẽ: “Hãy đến ngôi nhà bạn vừa nói, hỏi trực tiếp chủ nhà xem họ trả lời như thế nào. Nếu còn băn khoăn, hãy quay lại hỏi tiếp”. Cũng trong năm 1956, ông chú tôi muốn mua một chiếc máy in nhỏ để kinh doanh trong ngành in vì chính sách mới không cho phép ông mở trường dạy kèm. Bà vợ hỏi lại: “Ông có biết sử dụng máy không?” - Ông chồng trả lời: “Không” - “Ông có biết sắp chữ được không?” - “Không” - “Ông sẽ thuê thợ chứ sao. Đã có thợ thì tất có chủ, ông muốn làm một chủ nhân dưới chế độ này à?”. Ông chồng tính vốn nhút nhát, rút lui ngay.
Cô kết luận với tôi: “Chế độ này không ưa cá nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn là được, thiếu một chút càng tốt, thiếu ăn là được coi là vinh, không là mất mặt, nên tôi chỉ cần đủ ăn thôi”. Làm hoa giấy không thể làm giàu được nhưng rất đủ ăn, lại nhàn nhã và không cần lo lắng. Tôi hỏi tiếp: “Còn chú, còn các em?” - “Chú tuy chưa già nhưng phải nghỉ ngơi, các em sẽ trở thành cán bộ, tôi sẽ phải nuôi dưỡng một đám ăn bám, mặc dù họ có đủ tài năng để không cần sống nhờ vào ai”.
5.
Cô Hiền ra ngoài, chị Đại ở trong nhà, đều là những người phụ nữ rất thực tế. Mọi việc đều được họ tính toán trước. Và luôn luôn đúng vì không có sự kiêng nhẫn, ganh đua, hoặc tham lam xen vào. Không có cả sự lãng mạn hay mơ mộng vô căn cứ. Đã quyết là làm, đã làm là không để ý đến lời nói của người khác. Cô tuyên bố mạnh mẽ với tôi: “Suốt đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chính quyền”.
Gần ba chục tuổi cô mới lấy chồng, không phải là với một quan lại nào, cũng không hứa hẹn với các nhà văn hóa, giải trí, đùa vui một thời là đủ, bây giờ phải làm vợ làm mẹ, cô chọn một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm chỉ khiến cả Hà Nội phải trầm trồ. Có gì là đáng trầm trồ, cô đã dự tính trước hết. Sau khi sinh đứa con gái út, người con thứ năm, cô nói với chồng: “Từ nay là kết thúc việc sinh con, bốn mươi tuổi rồi, nếu chúng ta sống đến sáu chục thì con út đã hai mươi, có thể tự mình sống, không cần phải phụ thuộc vào các anh chị”. Điều này là hoàn toàn đúng.
Cô bảo tôi: “Mày đối xử với vợ mày quá khắt khe, không để nó tự quyết định bất kỳ điều gì, thế là không tốt. Người phụ nữ không được tự do thì gia đình đó không thể thành công”. Khi các con còn nhỏ, ngồi ăn cơm cô thường chú ý chỉnh sửa cách ngồi, cách cầm đũa và bát, cách múc canh, cả cách trò chuyện trong bữa ăn. Cô luôn nhắc lũ con tôi: “Chúng mày là người Hà Nội, việc đi lại và nói chuyện phải đúng chuẩn, không được sống tự do tùy ý, loạng choạng”. Có một lần tôi tranh cãi: “Chúng tôi là người sống trong thời kỳ chiến tranh, các ông bà lại dạy con cái theo cách yên bình là không dễ dàng”. Cô ngồi im lặng một lúc, sau đó nói: “Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng, biết xấu hổ, sau này muốn sống như thế nào là tùy họ”.
Đầu năm 1965, Hà Nội tiến hành tuyển quân vào chiến trận ở miền Nam, đây là lần tuyển chọn đầu tiên nên rất kỹ lưỡng, độ tuổi từ 18 đến 25, có diễn viên kịch, nhạc sĩ, họa sĩ, và rất nhiều giáo viên trung học, là những chàng trai nổi bật của Hà Nội. Nghe nói khoảng 660 người. Con trai đầu của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học, tự nguyện đăng ký tham gia. Tháng 4 năm 1965, ông lên Thái Nguyên để huấn luyện. Tháng 7, anh rời Thái Nguyên để đi miền Nam.
Họ dừng lại ở Hà Nội vài giờ vào buổi tối, nhưng không ai biết. Tôi hỏi cô: “Cô có chấp nhận cho con đi chiến đấu không?”. Cô đáp: “Tao buồn nhưng chấp nhận, vì tao không muốn con phụ thuộc vào sự hy sinh của bạn bè. Con dám đi là biết tự trọng”. Ba năm qua, cô không nhận được tin tức gì từ đứa con đã ra đi, sau đó là đến lượt đứa con kế tiếp viết đơn xin gia nhập quân đội, cũng muốn tham gia vào chiến trường để gặp anh, nếu anh đã hi sinh thì sẽ tiếp tục theo đuổi lý tưởng của anh. Tôi hỏi cô: “Cô có đồng ý cho con đi không?”. Cô trả lời với sự buồn rầu: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, việc ngăn cản là như bảo nó tìm cách sống để bạn bè phải chết, đó cũng là một cách giết chết nó”. Rồi cô thêm: “Tao muốn sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống hoặc chết, vui buồn gì cũng có”.
Rất may mắn là anh em tôi học rất giỏi, thi vào đại học với số điểm cao, nên nhà trường giữ lại. Tôi đến chúc mừng cô và em, cô nói: “Hiện tại thì nó may hơn anh nó, nhưng nếu anh nó còn sống thì cũng chưa biết đứa nào may hơn đứa nào”. Cô tôi tính toán việc nhà việc nước đại khái là như thế.
6.
Vào tháng 12 năm 1975, cô Hiền mời con gái xuống nhà gọi vợ chồng tôi tới ăn liên hoan mừng em Dũng đã về. Cô nói: “Nó đeo ba lô bước vào đến giữa nhà tao còn hỏi, anh muốn mua gì?”. Tôi cũng không thể nhận ra nếu được gặp đồng chí thượng úy này ở đâu đó. Gầy ốm quá, da đen quá, râu ria cũng nhiều quá, chẳng còn tí dấu vết gì là một chàng trai của Hà Nội.
Trong suốt vài thập kỷ sống dưới chế độ ta, mỗi tháng cô đều tổ chức một bữa ăn bạn bè, gồm các cựu công dân Hà Nội, những tên tuổi đã thành danh của đất kinh kỳ. Khoảng mươi, mười lăm người gì đó. Cửa hàng đóng từ chiều, các bà lần lượt đến trước, xông ngay vào bếp cùng làm cơm, các ông đến sau, mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, bỏ áo khoác ngoài bên trong còn mặc đồ bộ, thắt cà-vạt, nhưng đã sờn bạc cũ kỹ. Tiệc đã bày xong, vẫn chỉ có mấy ông ngồi tán suông chứ chưa thấy các bà. Rồi cửa trong mở, bà chủ xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển.
Ngày thường các bà mặc áo bông ngắn, quầng thâm, đi dép hoặc đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc quanh cổ hay bịt đầu, là các cô Lọ Lem của mỗi ngày, có phải nói chuyện mình cũng dễ ăn nói buông tuồng, thiếu ý tứ. Tất cả là bình dân, tất cả đều có quyền ăn nói thô tục. Còn lúc này, toàn là những người quý phái mình phải xử sự ra sao nhỉ? Cô hỏi tôi: 'Xã hội nào cũng phải có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị. Theo anh, ở xã hội ta thì là tầng lớp nào?'. Tôi cười phá lên: 'Thưa cô, là bọn lính chúng tôi, là giai cấp lính chúng tôi, chứ còn ai nữa'.
Vì vậy, hơi thở của quân nhân lan tỏa khắp mọi nơi, mọi nẻo đường, quan hệ theo kiểu quân đội, giải trí theo kiểu quân đội, giao tiếp theo kiểu quân đội, văn chương cũng mang hơi thở của quân đội. Những người lính mới chiến thắng, những người lính được xã hội tôn trọng. Nhưng bây giờ, sau khi đã đánh bại được mười lăm năm, tầng lớp quân nhân đã mất vị thế độc đáo của mình. Giờ đây là thời của các giám đốc công ty, các tổng giám đốc công ty, các cố vấn, chuyên gia kinh tế đủ loại định giá mọi chuẩn mực giá trị cho cả xã hội.
Tôi muốn trở lại bữa tiệc của buổi tối đó, bữa tiệc của những người thượng lưu Hà Nội không còn giữ vị thế tiếp đãi, chiều chuộng hai anh bộ đội từ một thành phố lớn nhất của quốc gia trở về. Thực ra, Dũng là nhân vật chính, còn tôi chỉ là một nhân vật phụ, chỉ là một phần trong cái vinh quang chung. Trong buổi tiệc, tôi dường như đã nói quá nhiều, nói về Sài Gòn lớn hơn, đông hơn, đẹp hơn Hà Nội của tôi, về cách dễ chịu lịch sự của người dân Sài Gòn so với người dân Hà Nội. Những người nghe chỉ im lặng, không ai hỏi lại, không ai bình luận thêm gì. Liệu tôi đã nói điều gì sai lầm?
Một ông lão nhìn về phía Dũng và hỏi: 'Anh lính có chuyện gì hay không để kể?' Dũng trả lời: 'Thưa các bác, chỉ có những câu chuyện không được vui lắm'. Một bà phụ nói: 'Cứ kể đi, người xa cũng muốn biết những gì anh muốn nói'. Dũng kể về việc anh suy nghĩ về những người từ Hà Nội ra đi cách đây chính xác mười năm. Sáu trăm sáu mươi người, giờ chỉ còn khoảng bốn chục người trở lên.
Anh kể về một người bạn cùng đơn vị, cùng cấp thượng úy, tên là Tuất. Khi chuyến tàu từ Thái Nguyên đến ga Hà Nội gần như đã nửa đêm. Mưa vừa tạnh, đèn lòe sáng trên lá cây, trên con đường vắng vẻ, trên sân ga Hà Nội. Khi tàu dừng lại, một tiếng loa rất to, rất rõ vang lên: 'Quý khách lưu ý! Quý khách lưu ý! Chuyến tàu từ Thái Nguyên...'. Tuất ngồi bên cạnh Dũng nhìn ra cửa sổ, gần như đẩy nửa cơ thể ra ngoài, hỏi lớn: 'Dũng ơi, Dũng, tiếng của mẹ mày đấy! Tiếng của mẹ mày đấy!...'. Không ai được phép xuống tàu, không ai được biết trước để chờ ở ga, để có thể nhìn nhau lần cuối, nói lời tạm biệt. Mọi thứ đều phải giữ bí mật. Dũng tiếp tục kể:
- Thằng Tuất hy sinh ở trận đánh tại Xuân Lộc, trước khi chiến thắng chung có mấy ngày. Tôi về Hà Nội muốn đến nhà ga ngay, đến phòng phát thanh, gặp mẹ Tuất, nói với bà một lời, vì chúng tôi đã cùng nhau trong mười năm qua. Nhưng sau đó phải mất mấy ngày tôi mới dám đi. Tôi biết phải nói gì với một bà mẹ có con hy sinh, trong khi bạn của con vẫn sống, sống đến ngày hôm nay. Bà ra ngoài giữa đám đông nhưng tôi vẫn nhận ra ngay đó là mẹ của Tuất. Tuất nói rằng hắn giống mẹ hơn là giống cha. Tôi chỉ kịp nói: Thưa cô, tôi là Dũng... Nước mắt rơi dày dày, tôi òa khóc như một đứa trẻ. Bà nắm chặt cánh tay tôi nhưng không khóc. Và bà nói run rẩy: 'Im đi con, im đi Dũng! Cô đã biết hết rồi. Cô biết từ mấy tháng nay rồi'.
7.
Nhiều năm đã trôi qua. Tôi sống ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi khi phải đến Hà Nội đều ghé lại thăm cô Hiền. Chú tôi đã ra đi. Các em đã lập gia đình. Chúng tôi đều đã bắt đầu già. Trong lớp các cụ, chỉ còn vài người, và cô Hiền là một trong số đó. Dù cô đã yếu dần, đã già hơn, đã bước qua tuổi bảy mươi, nhưng cô vẫn giữ vững bản sắc của mình, một người thuần túy Hà Nội, không lẫn lộn. Nơi tiếp khách của cô vẫn giữ nguyên tấm bình phong cao vút từ gỗ chạm suốt mấy chục năm qua. Bên trong, những món đồ như sa lông gụ 'cái khánh', cái sập gụ chân quỳ chạm nổi bật, một cái tủ chùa mở ra lộ diện các vật dụng truyền thống như lọ men Thúy Hồng, lư đời Hán, liễn hấp sâm Giang Tây, và một số bình lọ màu men, không rõ từ thời kỳ nào. Cô đang lau chùi một chiếc bát thủy tiên men đỏ, có hai đầu rồng được làm bằng đồng, đẹp đẽ không gì sánh bằng. Ngoài trời, lạnh buốt với cơn mưa nhẹ nhưng chỉ đủ làm ẩm áo, không làm ướt. Nhìn cảnh một bà lão lau chùi chiếc bát thủy tiên, tôi nhớ lại không khí tết Hà Nội, những mong muốn dành cho một cái tết truyền thống. Năm nay chắc chưa thể thấy thủy tiên. Người dân Hà Nội đã đi Lạng Sơn để mua sắm đủ loại, nhưng sao không thấy bán vài ngàn củ thủy tiên? Liệu còn ai biết cách làm thủy tiên không? Ngoài cách sống hiện đại, tâm lý náo nhiệt, vụ lợi, ai có thể có đủ sự bình tĩnh để thưởng thức vẻ đẹp trang nghiêm của một bông hoa thủy tiên. Cô Hiền hỏi:
- Anh đi Hà Nội lần này, phố phường như thế nào, dân chúng thế nào?
Tôi cười và đáp:
- Chưa bao giờ Hà Nội sôi động như bây giờ. Phố phường sôi nổi, dân chúng hân hoan.
- Nhiều người thấy Hà Nội đã hồi sinh.
Tôi nói:
- Có phần đúng, nhưng chỉ là hồn phần. Đối với phần thân, vẫn còn chưa. Chỉ cần nhìn vào cách mọi người Hà Nội giao tiếp, ăn uống, và buôn bán trên đường là có thể nhận biết được điều này.
Nhưng mà phải thừa nhận, cũng có những sự việc khiến tôi cảm thấy bực bội, và đau lòng. Một ngày, khi tôi đang đạp xe trên đường Phan Đình Phùng, đang suy nghĩ chậm rãi, một người bạn trẻ đi xe đạp vụt qua, gần như đâm vào đuôi xe của tôi, may mà tôi kịp phản ứng. Tôi quay lại nhẹ nhàng hỏi: 'Bạn đang vội về đâu?'. Nhưng hắn không trả lời, chỉ đạp nhanh qua xe tôi, sau đó quay lại và gọi tôi một cái từ đầu đến chân: 'Tiên sư, ông già kia!'.
Một buổi sáng khác, khi tôi đến thăm một người bạn ở quận Đống Đa sau một thời gian dài không gặp, tôi lạc đường và phải hỏi người đi đường. Phản ứng của họ đa dạng, từ việc chỉ đường cho đến việc quay mặt lạnh lùng nhìn tôi. Tôi than phiền về thái độ thiếu lễ phép của người Hà Nội với vợ bạn, và cô con gái đang cho con bú lên tiếng: 'Ông mặc quá tăm tối, họ khinh thường mà thôi. Hãy thử mặc một bộ đồ lịch sự hơn, cưỡi chiếc xe hơi, thể hiện sự lịch lãm đi'. Tôi chỉ cười nhẹ: 'Lại thế rồi!'.
Cô Hiền im lặng trước những lời phê phán không mấy lạc quan của tôi về Hà Nội. Cô chia sẻ với tôi rằng dạo này cô thường suy nghĩ về mọi điều một cách sâu sắc, giống như một bà lão ở quê. Một đêm mùa hè năm nọ, cơn bão đổ xuống Hà Nội gào thét, khiến cô mở cửa ra nhìn sang đền Ngọc Sơn và cảm thấy rùng mình. Cây si cổ thụ gãy đổ tàn phá hậu cung, với một phần gốc cây chổng lên trời. Ngay lúc đó, cô nghĩ đến sự biến đổi, điềm xấu, như một dấu hiệu của sự ra đi của một thời kỳ.
Đối với người già, bất kể ai, quá khứ luôn là thời kỳ hoàng kim. Mỗi thế hệ đều có thời kỳ hoàng kim của riêng mình. Hà Nội thì không phải là trường hợp đó. Mọi thời đại ở đây đều đẹp, mỗi giai đoạn mang vẻ đẹp riêng của nó. Cô chia sẻ với tôi điều này, cho thấy rằng biết nói về điều đó không hẳn là đã già. Sau đó vài ngày, cô kể thêm, thành phố đã sử dụng máy cẩu để cứu cây si, đặt nó ở bên kia sông, kéo cây từ từ lên, mỗi ngày một chút. Sau một tháng, cây si đã sống lại, mọc lá non, vẫn là biểu tượng của nhiều thế hệ Hà Nội. Điều này khiến mọi người bất ngờ và nghĩ rằng cây đã chết, nhưng lại sống lại. Cô nói thêm: 'Luật tự nhiên luôn biến đổi, không thể dự đoán trước được sự sống và cái chết của tạo vật'.
Cô muốn mở rộng sự suy tính sâu sắc và khôn ngoan của mình ra một mức độ khác, một mức độ vô hình, không thể nhìn thấy, nhưng phải nhận ra rằng trên thế giới này có nhiều điều không thể biết để tránh bị hấp vào những điều có thể biết. Bà lão vẫn giữ được sự tinh tế và rộng lượng của mình. Một người như cô, khi qua đời thật đáng tiếc, lại là một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống để chìm vào lớp đất. Những hạt bụi vàng ấy sẽ tỏa sáng ở mỗi góc phố Hà Nội, nhờ vào gió bay lên để làm cho thành phố trở nên lấp lánh với những ánh vàng.