1. Nội dung của tác phẩm 'Làng'
Mỗi tối, khi cô con gái lớn của ông Hai mang que đóm cháy từ nhà bếp lên, và bà Hai ngồi trầm ngâm trước đĩa đèn dầu lạc để tính toán tiền chi tiêu cho cua, bún, chuối, kẹo… thì ông Hai lại thấy buồn. Ông thường nghe tiếng súng trong đêm và đặc biệt là tiếng lầm bầm tính toán của bà vợ, khiến ông cảm thấy bực bội. Ông vốn không thích ngồi nghĩ ngợi mà thích lao động. Ở quê, ông làm việc suốt ngày, từ cày cuốc đến đan rổ, sửa chuồng gà. Từ khi tản cư lên đây, ngày ngày ông ngồi không, tối đến nghe tiếng tính toán của vợ, khiến lòng ông bồn chồn. Ông cảm thấy cần phải đi ra ngoài cho khuây khỏa. Mỗi lần ra ngoài, ông luôn hỏi bác Thứ: “Hôm nay có gì mới không bác?” mà không chờ câu trả lời.
- Này, Đácgiăngliơ lại về Pháp rồi nhé. Hừ, thật là vô lý! Đi đi về về mãi không ngừng.
Hoặc:
- Báo Cứu quốc hôm nay thật tuyệt vời. Cụ Hồ trả lời các phỏng vấn viên ngoại quốc một cách thông minh, vừa cứng rắn vừa mềm mỏng. Cụ nhấn mạnh rằng dân ta chỉ mong muốn Độc lập và Thống nhất, nếu không thì sẽ chiến đấu đến cùng. Cụ khẳng định, nếu không đạt được Độc lập, thì sống chẳng còn ý nghĩa gì. Cụ cũng thảo luận về vấn đề tản cư, sự khủng bố của Tây, Việt gian, thổ phỉ… và các vấn đề chính trị, quân sự. Cụ chia sẻ chi tiết về cách bố trí và chính trị, dù chẳng đi đến đâu. Cụ lão vui vẻ kéo dài ria mép và cười mỉm:
- Cũng chỉ là học lỏm thôi bác ạ… Tôi cũng là phụ lão cứu quốc mà… Khi câu chuyện tin tức đã cạn kiệt, ông quay sang nói về làng của mình với niềm say mê đặc biệt. Đôi mắt ông sáng lên, khuôn mặt rạng rỡ và hoạt động. Ông tự hào khoe rằng làng ông có phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa và rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh cao như ngọn tre, loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông cũng khoe rằng làng ông có nhà ngói san sát, sầm uất như một tỉnh thành.
Đường trong làng đều được lát đá xanh, trời mưa hay gió cũng không lo bị bùn dính chân. Tháng năm, ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì đạt chất lượng thượng hạng, không có một hạt thóc đất. Ông Hai vẫn thường khoe làng mình như vậy. Trong thời kỳ đế quốc Pháp, mỗi khi đi xa, ông chỉ khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng mình. Ông rất tự hào về sinh phần ấy: “Chết! Chết, tôi chưa thấy dinh cơ nào như dinh cơ cụ thượng làng tôi. Có vườn hoa, cây cảnh đẹp như động. Nghe nói còn hơn cả lăng cụ thiếu Hà Đông!” Mỗi khi có khách từ tỉnh lên, ông đều phải dẫn đi xem lăng, giải thích về các tượng đá và các chi tiết kỳ lạ như cái cọc sắt với bốn con dơi quét vôi vàng.
- Không phải là “cụ tôi” đã yên nghỉ, sét cũng không thể đánh vào được. Thấy không? Trí lực của người ta có đáng sợ không?
Ông lão vừa nói vừa nhìn vào vẻ mặt ngạc nhiên của người bà con họ bên ngoại, cảm thấy mãn nguyện trong lòng. Ông tự hào về cái lăng tẩm, như thể đó là thành quả của chính mình. Nhưng kể từ khi khởi nghĩa, ông không còn nhắc đến lăng nữa vì ông đã căm ghét nó. Lăng tẩm đó đã làm khổ ông và nhiều người trong làng. Xây lăng tốn công sức cả làng, nhiều người bị ốm, chết, hoặc làm việc không công. Ông cũng bị chấn thương do gạch đổ vào. Giờ đây, khi khoe về làng, ông lại kể về những ngày khởi nghĩa sôi động, khi ông gia nhập từ những ngày đầu. Ông kể về các buổi tập quân sự, các cụ phụ lão cũng tham gia. Cả làng được xây dựng công trình phòng thủ, với hố, ụ và giao thông hào khắp nơi. Ông lão kể chi tiết từng công trình như ở đầu xóm Ba Khu, Ngõ Mái, và các cửa mạch nối liền trong làng. Ông cũng kể về những năm tháng lận đận trước khi trở về quê hương. Suốt buổi tối, ông ngồi trên chiếc chõng tre và không ngừng nói về những công trình và chuyện làng của ông, mặc dù bác Thứ có vẻ không mấy quan tâm. Thực ra, ông chỉ muốn giải tỏa nỗi nhớ quê và không quá chú ý đến sự chú ý của người nghe. Đôi khi thấy mình nói quá nhiều, ông lại nhắc:
- Cậu còn nghe không đấy?
- Có! Có! Tôi vẫn nghe đây, ông cứ kể tiếp đi…
- Chuyến đi này… dù năm năm, ba năm, hay mười lăm năm, không biết có còn trở về được không. Ông lão thở dài và im lặng:
- Nhà tôi giờ không còn ai, phải ra đi. Nếu không phải vì thế, tôi đã ở lại với anh em trong làng. Quê hương, nơi mình đã gắn bó, làm sao không đau lòng khi phải rời bỏ?
Ông Hai thực sự không muốn rời làng để tản cư. Trong làng, vẫn có một số người ở lại, họ tụ tập quanh năm, sáu ngôi nhà giữa làng. Ngày qua ngày, ông cùng anh em làm công việc nặng nhọc như đào đường, đắp ụ, không còn thời gian nghĩ đến vợ con hay nhà cửa. Dù bà Hai đã nhiều lần thúc giục ông phải lên ngay, ông chỉ lắc đầu và nói: “Công việc đang gấp gáp, làm sao tôi có thể đi ngay được”. Khi bà Hai đến đón, ông lão vẫn không muốn rời bỏ. Ông nghĩ mình đã sống ở làng này từ thuở nhỏ, tổ tiên ông cũng đã sống ở đây bao đời. Trong lúc này, sao có thể bỏ đi được? Công việc là việc chung, không phải riêng mình. Ông lão nói với vợ:
- Tôi không thể đi được. Mẹ con cô phải tự lo liệu mà sống. Ở nhà, tôi sẽ cố gắng làm việc, gửi tiền lên cho. Tản cư chắc chắn thiếu thốn, nhưng không thể như xưa được.
Nhưng bà Hai khóc lóc, năn nỉ ông phải đi, bà nói:
- Ông định bỏ mẹ con tôi để chết đói à? Ông phải lên trên để trông nom chúng tôi, giúp đỡ tôi. Bà cũng khẩn cầu với mọi người và thôn đội trưởng, nhờ họ đồng ý cho ông Hai đi, và ông Hai đành phải nghe theo. Dù buồn khổ, ông cũng không biết làm sao khác. Tình cảnh mẹ con họ quả thực khó khăn. Một mình nuôi ba đứa trẻ, không có vốn liếng, ở nhà chỉ ôm con, lấy gì mà sống? Có người đàn ông trong nhà vẫn tốt hơn. Ông lên đây rồi làm thuê làm mướn cũng đỡ đần được phần nào. “Dù không ở lại làng với anh em được, thì tản cư cũng là một cách kháng chiến”…
Những ngày đầu trên này, công việc không có, ông lão luôn cảm thấy bực bội. Ông ít nói, ít cười, mặt lúc nào cũng cau có. Xin được mảnh đất sau nhà, ông cuốc xới suốt ngày, trồng được mấy luống rau thì đàn gà của chủ nhà ra vặt sạch. Ông lão rất tức giận. Không thể nổi cáu với ai, ông quay sang trách móc vợ con. Hơi chút là càu nhàu, chửi bới, thậm chí chuyện không đâu vào đâu cũng bị ông khơi ra để gây sự. “Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông nhiều quá rồi! Ông mà giết hết!”. Mỗi khi rời khỏi cái căn phòng nhỏ tối tăm, bề bộn với bồ bịch, nồi niêu và quần áo ẩm, ông lão cảm thấy nhẹ nhõm hẳn. Ông sợ căn phòng ấy đến mức không chịu nổi. Nhất là những buổi trưa nóng bức, có tiếng mụ chủ nhà nói chuyện lảm nhảm bên ngoài, ông càng không chịu nổi. Ông phải ra ngoài cho khuất mắt. Ông Hai chưa gặp người đàn bà nào tham lam, quỷ quyệt như mụ. Người thì gầy gò như củi khô, miệng mỏng và nói liến thoắng, gian manh. Không vào nhà thì thôi, vào rồi là nhòm ngó mọi thứ.
Mụ luôn luôn soi mói, lục lọi từng ngóc ngách. Mụ cầm lọ tương lên rồi đặt xuống, mở thạp gạo ra xem rồi đóng lại, lôi chiếc áo ra thử rồi vứt trở lại. Mụ dường như nghĩ rằng: khi chúng ở nhà mụ, mọi thứ của chúng cũng như của mụ. Đồ ăn của mụ thì được cất giữ cẩn thận, nhưng con dao, cái chậu, bó củi của người ta thì mụ sử dụng thoải mái, không tìm thấy thì mụ lại nói móc, như thể mụ bị hà hiếp. Ngay cả cái ăn, cái uống, mụ cũng phải kiểm tra. Mụ không bỏ sót bất kỳ thứ gì. Nếu có gì mới, mụ đã biết ngay. Không một ngày nào bà Hai về quán mà mụ không sấn đến kiểm tra.
- Ôi, nhà này có cá ngon quá, chiều nay tôi phải xin một bát. Mụ sai con bưng bát đến xin, mụ đẩy lưng thằng bé:
- Con cứ xuống xin đi, có gì để ăn mà giấu, mụ đều biết cả. Mụ đứng giữa nhà, ngẩng mũi lên ngửi:
- Có gì thơm lắm, giống như mùi bánh rán. Mẹ kiếp, nhà này chắc chắn giấu đồ ăn. Thỉnh thoảng, mụ lại vay tiền, lúc thì mua trầu, diêm, rau, cá… Mỗi lần đòi tiền, mụ chủ cũng chỉ nói:
- Tôi sẽ trừ vào tiền thuê nhà đấy. Mụ cười nhạt:
- Đùa chút thôi, ngày mai tôi sẽ cuốc một mẻ sắn rồi bán, rồi tôi sẽ trả ngay. Mụ lại tiếp tục:
- Này, đừng nói là tham lam, cái nhà ông Hai này và nhà bác Thứ bên kia, thật sự tôi chẳng được gì, còn xóm dưới, cánh hàng xáo thì nuôi lợn tràn lan. Nói thật, tôi chỉ cho ở nhờ có cái “khuẩn” thôi…
Ngay từ khi mới lên, ông Hai đã rất bực bội với mụ. Nghe xóm giềng đồn, ông biết mụ không phải người tử tế. Mụ đã trải qua ba đời chồng; hai người trước hoặc bỏ mụ hoặc bị mụ bỏ. Tính mụ thì hay chanh chua, chỉ biết bắt nạt chồng, trong khi người chồng thì hiền lành, chỉ biết cặm cụi làm việc. Ông Hai ghét mụ chủ, không muốn ở chung với người như thế. Ông đã nhiều lần bảo vợ dọn đi nơi khác, nhưng bà Hai vẫn lưỡng lự. Bà bảo:
- Biết đâu có nơi còn khó khăn hơn. Trong làng, nhà nào cũng ba bốn bếp tản cư hết rồi. Có chỗ ở như thế này đã là may mắn lắm rồi. Ông lão đành phải kiên nhẫn chờ đợi.
Hôm ấy, buổi trưa ông Hai ở nhà một mình. Con gái lớn chưa về từ quán, hai đứa nhỏ thì ông đã cắt ra vườn trông luống rau mới cấy, không để gà vặt hết. Ông vất vả cày xới một mảnh đất ngoài bờ suối từ sáng đến giờ, định trồng thêm sắn cho mùa đói năm sau. Một mình làm việc, hai vai ông đau nhức. Ông nằm xuống giường, vắt tay lên trán và mơ màng nghĩ về quê. Ôi, những ngày vui vẻ ở làng sao mà đáng nhớ. Ông thấy mình như trẻ lại, cùng anh em đào đường, đắp ụ, làm việc không ngừng. Ông lại muốn trở về làng, muốn tiếp tục công việc đó. Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã xong chưa? Những đường hầm bí mật còn thiếu gì không? Ánh nắng rọi xuống sân, tiếng gà kêu. Gian nhà như mờ đi, hơi đất lan tỏa. Sắp đến giờ mụ chủ về làm đồng, ông lại phải nghe mụ chửi con, mắng cái, và những chuyện rắc rối khác. Tấm liếp che cửa bỗng kêu lạch cạch, ánh sáng tràn vào. Ông Hai giật mình, ngẩng đầu nhìn ra. Đứa con gái lớn đang gồng đôi thúng không bước vào. Ông hỏi:
- Cậu ở ngoài đó làm gì mà lâu thế?
Chưa kịp nghe con trả lời, ông lão đã vội đứng dậy, cầm lấy cái nón:
- Ở nhà trông em nhé! Đừng có đi đâu đấy. Ông lão chỉ tay lên nhà trên và nói:
- Thì rút ruột ra, biết chứ! Nói xong, ông vội vã ra ngoài. Bầu trời xanh rộng lớn, mây sáng lấp lánh, di chuyển chậm chạp. Đường phố vắng vẻ, người dân đều tìm chỗ râm mát để tránh nắng. Một vài tiếng động nhẹ nhàng vang lên trong không khí oi ả. Ông Hai đi bộ giữa con đường vắng, đầu gối vươn về phía trước, hai tay vung vẩy. Gặp ai quen, ông đều dừng lại cười nói:
- Nắng thế này thì bỏ mẹ chúng nó thôi! Có người ngạc nhiên hỏi lại: “Chúng nó nào?”. Ông lão bật cười, chỉ tay về phía phát súng:
- Làm gì ngoài đó lâu thế? Ngồi trong này chẳng khác gì tù giam. Nói xong, ông lão tiếp tục đi, làm như bận rộn lắm. Như thường lệ, việc đầu tiên là vào phòng thông tin nghe đọc báo. Ông đứng lấp ló xem tranh ảnh, chờ người khác đọc rồi nghe lén. Ông cảm thấy khổ sở lắm, dù đã học lớp bình dân học vụ và biết đọc, viết, nhưng chữ in vẫn khó nhận diện. Ông không muốn cứ giữ tờ báo cho riêng mình, mà lại ghét những người đọc thầm, không cho người khác nghe. May hôm nay có anh dân quân đọc to rõ từng chữ, ông lão không bỏ sót câu nào, tin tức thật hấp dẫn.
- Một cậu nhỏ trong ban tuyên truyền đã bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm để cắm quốc kỳ lên Tháp Rùa. “Đấy, cứ kêu chúng nó trẻ con mãi, thử xem có bằng được chúng nó không?” Một trung đội trưởng sau khi tiêu diệt bảy tên giặc đã tự sát bằng quả lựu đạn cuối cùng. Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người mua hàng bắt sống một quan hai bốt Thao ngay giữa chợ. “Thật là những người tài giỏi”. Còn nhiều tin tức đột kích khác nữa, nơi này giết năm lính Pháp và hai Việt gian; nơi kia phá hủy một xe tăng và một xe díp. “Cứ thế này, chỗ này giết một ít, chỗ kia giết một ít, súng ống cũng vậy, hôm nay vài khẩu, ngày mai vài khẩu, tích lũy dần, thế nào rồi thằng Tây cũng phải chịu thua”. Ông lão vui mừng khôn xiết, hân hoan bước ra khỏi phòng thông tin, vào quán dặn vợ vài việc rồi đi thẳng ra lối huyện cũ. Tại đây, những nhóm người tản cư mới từ dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố dưới các gốc đa xù xì, cành lá um tùm, tạo ra một vùng bóng mát rộng. Ông lão ngồi vào quán gần đó, hút điếu thuốc lào, uống một ngụm chè tươi nóng, miệng nhóp nhép, suy nghĩ vui vẻ. Tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ con khóc, và tiếng cười nói của nhóm người phá đường râm ran cả một góc đường. Dưới chân đồi, những cánh đồng lúa xanh mướt uốn lượn dưới ánh nắng, lấp lánh như dòng sông, và những bóng cò trắng bay lượn…
- Các ông bà từ đâu đến vậy? Ông Hai đặt bát nước xuống chõng và hỏi. Một người đàn bà nhanh miệng đáp:
- Thưa ông, chúng cháu từ Gia Lâm lên đây ạ. Đi mất bốn năm hôm mới đến, vất vả quá!
- Từ Gia Lâm lên ạ? Lúa má ở dưới ấy thế nào, có thể cấy được không bác?
- Không cấy thì lấy đâu ra cái ăn. Chúng tôi vẫn cấy bình thường. Chân ruộng dưới của chúng tôi còn tốt hơn nhiều so với trên này.
- Vẫn vậy thôi! Lúa ở dưới chúng tôi vẫn tốt hơn nhiều.
Ông lão hút thêm một hơi thuốc lào, gật gù cái đầu:
- Hừ, chiến đấu thì chiến đấu, làm ruộng thì làm ruộng, tản cư thì tản cư… Quả thật là trớ trêu.
- Ông có biết mấy hôm nay súng bắn ở đâu mà nghe đến rát tai không?
Một người phụ nữ đang cho con bú ở phía bên kia lên tiếng:
- Chúng rút quân từ Bắc Ninh về và đã qua chợ Dầu, gây khủng bố đấy ông ạ.
Ông Hai lập tức quay lại, giọng lắp bắp hỏi:
- Chúng… Chúng vào chợ Dầu à bác? Vậy ta đã tiêu diệt được bao nhiêu tên? Người phụ nữ ôm con, cong môi nói:
- Không tiêu diệt được tên nào đâu. Toàn bộ làng họ đều theo Tây, còn giết ai nữa. Ông lão cảm thấy cổ họng mình nghẹn lại, da mặt tê rân. Ông lặng người, như không thở nổi. Một lúc lâu sau, ông mới khẽ nuốt cái gì đó vướng ở cổ, rồi hỏi với giọng mệt mỏi:
- Liệu có thật không bác? Hay chỉ là…
- Chúng tôi vừa từ dưới lên đây mà. Việt gian đã từ ông chủ tịch đến từng người, ông ạ. Khi Tây vào làng, họ còn vác cờ ra chào đón. Thằng chánh Bệu thì mang theo tủ chè, đỉnh đồng, vải vóc lên xe, đưa cả gia đình lên cùng với giặc ra ngoài tỉnh. Có người thắc mắc:
- Sao lại bảo là làng chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?…
- Ấy thế mà giờ lại sa đọa như thế!
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, cười nhạt, vươn vai nói to:
- Trời nắng quá, về thôi…
Ông lão quay sang chỗ khác rồi lặng lẽ đi tiếp. Tiếng cười nói rôm rả của nhóm người mới tản cư vẫn vọng theo. Ông nghe rõ giọng chua chát của người đàn bà cho con bú:
- Mẹ kiếp chúng nó! Đói khổ, ăn cắp ăn trộm còn có thể thông cảm. Cái lũ Việt gian bán nước thì nên cho mỗi đứa một nhát!
Ông Hai cúi gằm mặt, bước đi. Ông chợt nghĩ đến mụ chủ nhà. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường, mấy đứa trẻ thấy bố hôm nay khác thường, lén lút ra đầu nhà chơi. Nhìn lũ con, ông thấy tủi thân, nước mắt cứ trào ra… Chúng nó cũng là trẻ con của lũ Việt gian đó ư? Chúng nó cũng bị người ta khinh miệt ư? Thật là tệ hại, bằng ấy tuổi đầu… ông lão nắm chặt tay và thét lên:
- Chúng bay ăn miếng cơm miếng cháo gì mà lại làm cái giống Việt gian bán nước, để người ta phải nhục nhã thế này! Ông lão bỗng ngừng lại, nghi ngờ như lời mình nói chưa thật chính xác.
Có thể nào bọn làng mình lại đốn mạt đến thế? Ông lão tự nhẩm lại từng người trong đầu. Không thể nào, họ đều là những người có tinh thần cả. Họ đã ở lại làng, quyết sống chết cùng giặc, làm sao lại có thể nhục nhã đến mức ấy! Nhưng sao lại có tin tức như vậy? Thằng chánh Bệu chắc chắn là người trong làng, không thể sai. Không có lửa làm sao có khói? Ai lại đi bịa đặt chuyện như thế? Ôi chao! Nhục nhã quá, cả làng Việt gian! Rồi đây làm ăn, buôn bán ra sao? Ai sẽ tiếp nhận? Ai sẽ buôn bán với? Cả nước Việt Nam này đều ghê tởm và căm ghét cái giống Việt gian bán nước… Còn bao nhiêu người làng nữa, mỗi người mỗi ngả, không biết họ đã rõ tình hình này chưa?… Chiều hôm ấy, bà Hai về nhà với vẻ khác thường. Bà bước đi mệt mỏi, mặt cúi xuống đầy ưu tư. Đôi quang gánh lủng lẳng trên vai. Bà vào nhà, lặng lẽ xếp hàng vào một góc, rồi ngồi ôm má ở bậc cửa mà suy nghĩ. Trẻ con cũng không dám đòi quà. Trong nhà im lặng đến khó chịu, không ai dám lên tiếng, thậm chí nhìn nhau cũng không dám. Mãi đến khuya, bà Hai mới đứng dậy, xuống bếp châm lửa, tính tiền hàng. Vẫn là tiền cua, tiền bún, tiền đỗ, tiền kẹo… Vẫn cái giọng rì rầm đều đặn như mọi ngày.
- Này thầy ơi.
Ông Hai nằm trên giường, không đáp.
- Thầy đã ngủ rồi à?
- Hả? Ông lão khẽ động đậy:
- Tôi nghe người ta nói rằng...
Ông lão cáu kỉnh đáp:
- Tôi biết rồi!
Bà Hai im lặng. Căn nhà trở nên vắng lặng và u ám. Ánh sáng vàng từ ngọn đèn dầu chiếu lên gương mặt lo âu của bà. Tiếng thở của ba đứa trẻ ngủ say hòa quyện với sự tĩnh lặng của căn nhà.
- Nhưng người ta đồn ở đây không nhận người từ chợ Dầu nữa, thầy ạ.
Nghe ngóng một lúc mà không thấy chồng phản ứng, bà lão lại cúi xuống lầm bầm tính toán. Khuôn mặt bà hiện rõ sự chịu đựng và nhẫn nhịn. Trong khi gian phòng bác Thứ đã yên lặng từ lâu, xung quanh tĩnh lặng… Thỉnh thoảng chỉ có tiếng chó sủa từ xa và tiếng trẻ con khóc vọng lại trong gió. Ông Hai vẫn trằn trọc không thể ngủ được. Ông liên tục trở mình từ bên này sang bên kia, thở dài. Đột nhiên ông lão im bặt, cảm giác như chân tay không còn sức... Có tiếng nói lảnh lót từ gian trên. Là tiếng của mụ chủ… Mụ đang nói gì vậy? Mụ nói gì mà xào xạc thế? Trái tim ông lão đập thình thịch. Ông nín thở, lắng nghe từng âm thanh bên ngoài… Bà Hai bỗng lên tiếng:
- Thầy ngủ rồi ư? Dậy tôi bảo cái này đã.
Ông Hai bật dậy, chỉ tay lên gian trên, nghiến chặt hàm răng:
- Im! Khổ lắm! Nếu nó nghe thấy lại không ra cái gì bây giờ. Ông lão lại nằm xuống, không nhúc nhích.
Đã ba bốn ngày rồi, ông Hai không dám ra ngoài, cả sang nhà bác Thứ ông cũng không dám. Ông chỉ quanh quẩn trong cái gian nhà chật hẹp, luôn lắng nghe tin tức bên ngoài. Một đám đông tụ tập gần đó khiến ông lo lắng, vài tiếng cười nói từ xa cũng khiến ông bồn chồn. Ông lúc nào cũng cảm thấy như có người đang để ý, đang bàn tán về “vấn đề” của mình.
Mỗi khi nghe thấy những từ như Tây, Việt gian, cam nhông, ông lại lẩn vào một góc nhà, giữ im lặng. Lại đến chuyện đó rồi! Nhưng điều ông sợ nhất còn tệ hơn cả những từ ngữ kia, đó chính là mụ chủ nhà. Từ khi xảy ra chuyện, dường như mụ ta cảm thấy hả hê khi làm khổ vợ chồng ông. Sáng chiều, sau khi làm đồng về, mụ lê cái nạo cỏ, đi qua cửa nhà ông, lại nói những câu bóng gió, như đang châm chọc ông. Đành rằng giờ thế nào cũng phải chịu, có chỗ để nấp đã là may. Mỗi khi mụ nói, ông chỉ cười gượng, làm như không biết gì. Ông thì muốn lẩn đi, nhưng mụ chủ nhà chẳng để ông yên. Sáng nay, khi bà Hai chuẩn bị ra hàng, mụ chủ nhà không biết từ đâu về, đứng chắn ngoài sân, gọi vào:
- Bà lão chưa ra hàng à? Muộn thế?…
- Chưa bà ạ. Mời bà vào chơi trong này!
- Vâng, bà cứ để em… À, bà Hai này!… Mụ lại gần bậc cửa, tỏ vẻ thân mật:
- Trên này người ta đồn râm ran rằng làng dưới ta đã theo Tây làm Việt gian, ông bà có biết chưa? Nghe đâu có lệnh đuổi hết những người từ làng chợ Dầu ra khỏi khu vực này.
Mụ chủ lắc đầu, giọng đầy vẻ thương hại:
- Đừng lo lắng quá… ông bà là người lương thiện mà. Nhưng có lệnh thì biết làm sao. Đành phải tìm chỗ khác vậy… Ở với nhau vui vẻ như thế, mà giờ ông bà phải dọn đi, tôi sẽ nhớ lắm đấy.
Bà Hai cúi mặt, nước mắt lưng tròng, nói:
- Vâng… nếu dân làng đã không cho ở nữa, chúng tôi cũng đành phải đi nơi khác. Nhưng xin ông bà trên ấy cho vợ chồng chúng tôi vài ngày nữa. Giờ bảo đi, chúng tôi cũng không biết đi đâu…
Mụ chủ ra về, bà Hai và con gái lớn nước mắt lã chã, lặng lẽ gánh hàng ra quán. Vợ chồng cũng chẳng dám nói với nhau lời nào. Ông Hai ngồi lặng trên giường, tâm trí quay cuồng với những ý nghĩ u ám, lo lắng. Không biết đưa nhau đi đâu bây giờ? Ai sẽ nhận bố con ông? Quá tuyệt vọng! Đất Thắng này, Đài, Nhã Nam, Bố Hạ, Cao Thượng… đâu đâu cũng đuổi người chợ Dầu như đuổi dịch bệnh. Dù chính sách của Cụ Hồ không đuổi, thì mình cũng không còn mặt mũi nào để đến đó. Câu nói của người đàn bà tản cư hôm trước lại vang lên trong đầu ông. Hay là quay về làng? Nhưng ngay khi nghĩ thế, ông đã tự phản đối. Về làng sao được khi chúng đã theo Tây? Về làng có nghĩa là từ bỏ kháng chiến, từ bỏ Cụ Hồ… Nước mắt ông trào ra, về làng có nghĩa là chấp nhận làm nô lệ cho Tây. Ông nghĩ đến những kẻ khốn nạn ở cái đình làng, những kẻ cậy thế, hống hách, làm khó dễ người khác. Ngày ngày chúng chỉ biết đóng cửa đình, đánh tổ tôm và bàn bạc việc làng, còn những kẻ nghèo khó như ông chỉ biết cúi đầu lủi đi. Những ai không khúm núm thì bị chúng tìm cách hại, tước đoạt ruộng đất, truất quyền, đuổi ra khỏi làng…
Ông Hai cảm thấy rùng mình. Cả cuộc đời đen tối và khổ cực như một cơn ác mộng lại hiện về trong tâm trí ông. Ông không thể trở lại cái làng đó nữa. Về bây giờ có phải chấp nhận mất tất cả không? Không thể được! Dù yêu làng nhưng khi làng theo Tây thì phải căm thù. Ông lão ôm đứa con út vào lòng, vỗ nhẹ vào lưng nó, hỏi:
- Húc à! Thầy hỏi con một câu, con là con của ai?
- Là con của thầy và mẹ.
- Vậy nhà của con ở đâu?
- Nhà chúng ta ở làng chợ Dầu.
- Con có muốn trở về làng chợ Dầu không? Thằng bé tựa đầu vào ngực bố, trả lời nhỏ nhẹ:
- Có. Ông lão ôm chặt thằng bé vào lòng, một lúc sau lại hỏi tiếp:
- Thầy hỏi con nhé. Con ủng hộ ai? Thằng bé giơ tay lên, khẳng khái và rõ ràng:
- Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm! Nước mắt ông lão lăn dài trên má, ông nói nhẹ nhàng:
- Đúng vậy, con ủng hộ Cụ Hồ. Những ngày này, khi ngồi một mình trong góc nhà, cảm thấy buồn tủi, ông lại tâm sự với con như thế. Ông nói như để tự trấn an, như để giải thích cho bản thân. Các đồng chí và anh em hiểu cho bố con tôi. Cụ Hồ sẽ chứng giám cho chúng tôi. Tấm lòng của bố con tôi như vậy, chẳng bao giờ sai lầm. Dù có chết, chúng tôi cũng không sai lầm. Mỗi lần nói được vài câu như vậy, nỗi khổ trong lòng ông cũng giảm bớt được phần nào.
Vào khoảng ba giờ chiều hôm đó, một người đàn ông từ chợ Dầu đến thăm ông Hai. Hai người trò chuyện ở góc nhà một hồi lâu, rồi ông Hai vội vàng ra đi cùng hắn, quên cả dặn dò lũ trẻ giữ nhà. Ông đi mãi đến tối mới về, gương mặt buồn rầu thường ngày bỗng nhiên rạng rỡ và vui tươi. Ông miệng nhai trầu, mắt đỏ và sáng lên... Vừa đến ngõ, ông đã gọi lớn:
- Các cháu đâu rồi? Ra đây thầy chia quà nào. Lũ trẻ từ trong nhà lao ra, ông lão nhanh tay lấy ra một gói bánh rán đường bọc lá chuối khô để đưa cho cô bé lớn nhất:
- Đây là bánh rán đường, mỗi đứa chia cho một cái nhé. Nói xong, ông lão lại nhanh chóng chạy sang bên gian bác Thứ. Chưa đến cửa, ông đã gọi to:
- Bác Thứ đâu rồi? Bác đang làm gì? Tây đã đốt sạch nhà tôi rồi bác ạ. Đốt hết! Ông chủ tịch làng vừa mới lên đây để cải chính, ông ấy nói rằng... Cải chính tin làng chợ Dầu chúng tôi là Việt gian. Lỗi hết! Lỗi hoàn toàn! Toàn bộ đều sai mục đích cả.
Bác Thứ chưa kịp nghe rõ câu chuyện, ông lão đã vội vàng trở lại lên nhà trên.
- Nhà tôi đã bị Tây đốt sạch rồi, thưa ông chủ. Đốt hết trơn. Ông chủ tịch làng tôi vừa lên đây để làm rõ... Làm rõ cái tin đồn làng chợ Dầu chúng tôi là Việt gian. Thật là sai bét! Sai hết, không có gì đúng cả. Hoàn toàn sai mục đích!
Nói xong, ông lão lại vội vã đi đến chỗ khác. Ông phải thông báo cho mọi người biết chứ. Ông cứ liên tục khoe tin này với mọi người. Ai cũng vui mừng cho ông lão. Ngay cả mụ chủ nhà, người mà ông lão nghĩ sẽ nổi giận, lại tỏ ra rất vui mừng. Mụ mở to mắt và vui vẻ nói:
- A, thế thì tốt! Tôi cứ tưởng dưới nhà thực sự là Việt gian, ghét lắm ấy… Thôi, bây giờ ông bà cứ sống thoải mái, không ai nói gì cả. Ăn uống bao nhiêu cũng được, sống thế nào cũng không sao. Mụ cười tươi:
- Này, rồi cũng phải nuôi lợn để ăn mừng đấy! Ông Hai gật đầu đồng ý:
- Đúng rồi, phải nuôi lợn để ăn mừng thôi...
Tối hôm đó, ông Hai lại đến ngồi bên gian bác Thứ, ngồi trên chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn và kể chuyện về làng của ông. Ông thuật lại chi tiết vụ Tây vào khủng bố: bao nhiêu quân địch, số lượng Tây, Việt gian, các con đường chúng đi, những nơi chúng đốt phá, và cách dân quân, tự vệ làng ông ứng phó. Ông kể rõ ràng như thể ông vừa mới tham gia trận chiến ấy.
2. Về nhà văn Kim Lân
Kim Lân (1920 - 2007) là bút danh của Nguyễn Văn Tài, người sinh ra và lớn lên ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Ông là một nhà văn xuất sắc, chuyên viết truyện ngắn và đã có nhiều tác phẩm được xuất bản trước cách mạng. Kim Lân có tình yêu sâu sắc với đời sống nông thôn, và các tác phẩm của ông chủ yếu miêu tả cuộc sống của người dân làng quê, cùng cảnh ngộ của người nông dân.
Ngoài việc viết lách, Kim Lân còn nổi tiếng với vai trò diễn viên. Ông đã đóng các vai nổi bật như Lão Hạc trong vở kịch 'Làng Vũ Đại ngày ấy' và Lý Cựu trong vở kịch 'Chị Dậu'.
Vào năm 2001, ông đã nhận được Giải thưởng Nhà nước về Văn học và Nghệ thuật để ghi nhận những cống hiến của mình.
Kim Lân nổi tiếng với một số tác phẩm như 'Nên vợ nên chồng' (tập truyện ngắn, 1955) và 'Con chó xấu xí' (tập truyện ngắn, 1962)...
3. Giới thiệu về truyện ngắn 'Làng'
3.1 Bối cảnh sáng tác
- 'Làng' được viết trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Truyện lần đầu được xuất bản trên tạp chí Văn nghệ vào năm 1948.
3.2 Cấu trúc
Truyện được phân chia thành ba phần:
Phần 1: Từ đầu đến 'Ông lão đành phải dùi dắng chờ vậy'. Miêu tả cuộc sống của ông Hai trong thời gian tản cư. Phần 2: Từ câu tiếp theo đến 'Mỗi lần nói ra được vài câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vơi đi được vài phần'. Tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc. Phần 3: Phần còn lại. Sự vui mừng của ông Hai khi biết tin làng đã được minh oan.
3.3 Tóm lược
Mẫu 1
Truyện 'Làng' kể về ông Hai, một nông dân hết mực yêu quý và tự hào về làng chợ Dầu của mình. Khi chiến tranh xảy ra, gia đình ông phải rời xa quê hương. Một ngày, ông nhận được tin tức rằng làng chợ Dầu đã theo giặc. Thông tin này đã làm ông sốc và đau khổ. Khi trở về nhà, ông cảm thấy tuyệt vọng và mọi câu chuyện xung quanh đều khiến ông nghĩ rằng người khác đang bàn tán về làng của ông. Ông phân vân không biết nên quay về làng hay tìm nơi khác để sống. Sau khi trò chuyện với con trai út, ông quyết định rằng: 'Tôi yêu làng thật sự, nhưng nếu làng đã theo giặc thì tôi phải căm thù'. Khi nghe tin làng Dầu đã được minh oan và không theo giặc, ông rất vui mừng và tự hào thông báo tin này với mọi người.
Mẫu 2
Truyện 'Làng' kể về ông Hai, người rất yêu quý quê hương của mình. Khi chiến tranh xảy ra, gia đình ông phải tạm rời làng. Dù ở nơi tản cư, ông vẫn không ngừng nhớ về quê và tự hào về tinh thần kháng chiến của làng chợ Dầu. Một lần, ông nghe tin làng mình đã theo phe giặc. Tin tức này khiến ông rơi vào trạng thái buồn bã và đau khổ. Khi trở về nhà, ông cảm thấy mọi cuộc trò chuyện xung quanh đều như đang bàn về làng của ông. Ông cảm thấy bế tắc và không biết phải làm gì, thậm chí đã trò chuyện với con trai út. Cuối cùng, ông quyết định rằng: 'Tôi yêu làng thật sự, nhưng nếu làng đã theo giặc thì tôi phải căm thù'. Khi biết làng Dầu đã được cải chính và không theo giặc, ông rất vui sướng và tự hào khi thông báo tin này với mọi người.
3.4 Ý nghĩa của nhan đề
Mẫu 1:
Kim Lân, một nhà văn nổi tiếng với những câu chuyện ngắn, đã chọn nhan đề 'Làng' cho một trong những tác phẩm nổi bật của mình. Qua nhan đề này, ông muốn truyền tải nhiều ý nghĩa sâu xa. 'Làng' không chỉ đơn thuần là một đơn vị hành chính nhỏ của nước ta, mà trong tác phẩm, Kim Lân đã khắc họa hình ảnh 'làng chợ Dầu' - quê hương của nhân vật ông Hai. Làng Chợ Dầu không chỉ đại diện cho tình yêu nước và truyền thống cách mạng, mà còn là biểu tượng của lòng yêu quê. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo phe Tây và phản bội, ông Hai cảm thấy vô cùng đau đớn và quyết định: 'Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù'. Từ đó, Kim Lân khẳng định tình yêu đất nước của người Việt Nam vượt lên trên tình yêu cá nhân và làng quê. Ông cũng muốn nhấn mạnh sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam. Làng Chợ Dầu chỉ là một trong số rất nhiều làng khác, đều mang tinh thần yêu nước và nhiệt huyết cách mạng.
Mẫu 2:
'Làng' là thuật ngữ dùng để chỉ một đơn vị hành chính nhỏ của Việt Nam. Tuy nhiên, Kim Lân đã không dùng tên cụ thể như 'Làng Chợ Dầu' mà chỉ đơn giản là 'Làng', tạo ra một nhan đề mang tính tổng quát hơn.
Nhà văn không chỉ tập trung vào một làng cụ thể. 'Làng' trở thành hình ảnh đại diện cho sức mạnh đoàn kết của toàn dân trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Đồng thời, tác phẩm cũng phản ánh tình yêu sâu sắc đối với quê hương và đất nước của người nông dân Việt Nam thời đó.
=> Nhan đề ngắn gọn nhưng vẫn chứa đựng những tư tưởng sâu sắc của nhà văn.