Mytour hân hạnh giới thiệu đến các thầy cô giáo và các bạn học sinh lớp 12 bài văn mẫu: Chứng minh sức mạnh của thơ qua tác phẩm Mùa xuân nhỏ nhặt. Tài liệu này được tổng hợp một cách chi tiết, chính xác và hấp dẫn nhất.
Chúng tôi hy vọng rằng đây sẽ là nguồn tài liệu hữu ích giúp các bạn học sinh có được tài liệu học tập tốt nhất, từ đó giúp các bạn hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm và đem lại nhiều ý tưởng mới khi viết văn. Mời quý thầy cô và các bạn cùng tham khảo và tải mẫu tại đây.
Phân tích dàn ý: Chứng minh sức mạnh của thơ là một hình thức biện luận hùng biện
I. Bắt đầu
- Tóm tắt ngắn gọn về nội dung của tác phẩm
II. Nội dung chính
1. Tổng quan
- “Thơ là một hình thức biện luận đầy ý nghĩa”:
+ Hùng biện không chỉ là việc trình bày thông tin hay lập luận một cách logic để thuyết phục người khác, mà còn là sự sắc bén, chặt chẽ trong ngôn từ và lập luận.
+ Thơ ca, dù không sử dụng ngôn từ cứng nhắc và logic như hùng biện, nhưng vẫn có khả năng thuyết phục và gợi cảm xúc nhờ vào sự ăn ý giữa âm nhạc, nhịp điệu và hình ảnh. Nói thơ là hùng biện du dương đồng nghĩa với việc nhấn mạnh tính thuyết phục của thơ qua việc tạo ra cảm xúc và hình ảnh tươi đẹp.
- Trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ, chúng ta thấy sự phản ánh rõ nét của tính chất hùng biện du dương trong thơ.
2. Thơ là biện luận
- Dưới sự ảnh hưởng của cảm xúc mãnh liệt trước vẻ đẹp của mùa xuân, tác giả đã thể hiện mong muốn dâng hiến tinh thần mùa xuân của mình thông qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ.
- Bài thơ thể hiện lòng yêu quê hương đất nước một cách truyền cảm, như một lời hùng biện mãnh liệt.
+ Tác giả vẽ nên bức tranh tuyệt vời về vẻ đẹp của thiên nhiên quê hương, qua những hình ảnh sống động như dòng sông xanh, bông hoa tím biếc và tiếng chim chiền chiện hót vang trời.
+ Bằng niềm tự hào về lịch sử bền vững và niềm tin vào tương lai rạng ngời của đất nước, tác giả truyền đạt thông điệp về sự hùng vĩ và vĩ đại của quê hương.
- Bài thơ khẳng định khát vọng dâng hiến tinh thần mùa xuân của mình cho đất nước trong một bài hùng biện sâu sắc.
+ Trước vẻ đẹp mùa xuân tự nhiên, tác giả mong muốn góp phần tô điểm thêm cho bức tranh xuân bằng những điều giản dị như tiếng chim hót, hương hoa, và nốt nhạc trầm.
+ Tận sâu trong lòng, nguyện trao mùa xuân nhỏ bé của cuộc đời. Đây không chỉ là một mong ước thoáng qua, mà là sự cống hiến của cả một cuộc đời: “Dù là tuổi hai mươi/ Dù là ...”
+ Từ “vừa” không chỉ ám chỉ số ít mà còn biểu lộ sự hòa nhập, đó là lời kêu gọi mọi người cùng hòa mình vào cuộc sống tập thể của đất nước.
- Bài thơ là một tác phẩm hùng biện, thể hiện khát vọng dâng hiến, mong muốn hòa mình vào cuộc sống phong phú của đất nước.
3. Thơ là lời hùng biện không chỉ mạnh mẽ mà còn du dương, tươi sáng
- Tác giả thể hiện tình yêu quê hương thông qua hình ảnh sống động, tràn đầy sức sống, với sự trìu mến đặc biệt đối với thiên nhiên: “ơi con chim chiền chiện ...mà ”
- Tính nhạc của lời hùng biện trong bài thơ được thể hiện qua nhịp điệu trong sáng, qua âm thanh trong mỗi câu thơ:
+ Tiếng chim chiền chiện hót vang trời như là “từng giọt long lanh”
+ Đó cũng là âm thanh vang vọng của nhịp phách tiền, của khúc nhạc dân ca xứ Huế
+ Toàn bộ bài thơ như một khúc ca nhịp nhàng với những hình ảnh phong phú, những thông điệp thường xuyên: “mùa xuân”, “tất cả như”, “ta làm”.
+ Nhịp điệu của bài thơ thay đổi linh hoạt, từ sâu lắng đến hăng say, giống như một bản nhạc: từ phần đầu phô diễn vẻ đẹp thiên nhiên, đến phần giữa tôn vinh khí thế lao động của đất nước, cuối cùng là phần kết, trang nghiêm và cảm động truyền tải tâm tư.
+ Những dòng thơ nhẹ nhàng, đong đầy tình cảm dân ca
- Cách diễn đạt hùng biện sáng tạo, đầy hình ảnh:
+ Ẩn chứa sự biến đổi cảm xúc, lời thơ rực rỡ hình ảnh: “những giọt sáng lấp lánh rơi” (giọt mưa mùa xuân, giọt tiếng chim hót)
+ Sự kết hợp hài hòa giữa hình ảnh tự nhiên, đơn giản và những hình ảnh ý nghĩa biểu tượng phổ quát.
- Đây là biểu hiện của sự hùng biện bằng tấm lòng chân thành của con người luôn yêu quê hương, mong muốn cống hiến và tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống.
- Nhận định: bài thơ Mùa Xuân nhỏ bé là minh chứng rõ ràng cho quan điểm “thơ là sự hùng biện bay bổng”, bài thơ đã tận dụng cảm xúc chân thành để hùng biện về khao khát cống hiến, tình yêu quê hương thông qua những cung bậc nhạc điệu du dương và hình ảnh trong trẻo.
III. Kết thúc
- Bài thơ thể hiện sự nhạy cảm đối với vẻ đẹp của mùa xuân tự nhiên, của đất nước và khát vọng hiến dâng bản thân cho quê hương, cho cuộc sống.
Bài viết mẫu chứng minh Thơ là sự hùng biện bay bổng
Voltaired đã từng phát biểu rằng: “Thơ là sự hùng biện bay bổng”, điều đó là chân lý. Thơ cần phải thuyết phục mà lại phải sâu sắc, chạm đến lòng người. Một bài thơ chỉ có thể trở thành một tác phẩm thực sự và sống mãi trong thời gian nếu nó đáp ứng được cả hai điều kiện đó. Mùa Xuân nhỏ bé được Thanh Hải sáng tác vào những ngày cuối đời, tác phẩm là sự kết tinh của tâm huyết và tài nghệ thuật của ông. Tác phẩm không chỉ sâu sắc, lập luận rõ ràng mà còn tràn đầy cảm xúc, tha thiết và sâu lắng.
Để hiểu tính hùng biện và bay bổng trong tác phẩm Mùa xuân nhỏ bé của Thanh Hải, trước hết cần nắm bắt nhận định của Voltaired là gì. Hùng biện là lí lẽ, dẫn chứng, cách lập luận thuyết phục; còn bay bổng là sự mềm mại của âm nhạc, vần điệu trong một tác phẩm. Vậy nên, một bài thơ không chỉ cần nội dung thuyết phục mà còn cần sự lôi cuốn trong từng câu chữ. Tác phẩm thơ cần phải đặc sắc về nội dung và tinh tế về nghệ thuật. Và bài thơ Mùa xuân nhỏ bé đã đáp ứng đủ hai yêu cầu này của nhà phê bình Voltaired.
Mùa xuân nhỏ bé được viết một tháng trước khi nhà thơ qua đời. Tuy vậy, trong bài thơ không có sắc màu bi quan, u tối mà lại là trái tim yêu cuộc sống, khao khát và nguyện ước cống hiến cho cuộc sống. Tính hùng biện trong thơ ông chính là điều đó.
Tâm hồn yêu cuộc sống của Thanh Hải trước hết là sự say mê, háo hức trước vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên tuyệt vời: “Mọc giữa dòng sông xanh/ Một bông hoa tím biếc/ Ôi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời/ Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng”. Bức tranh mở ra với không gian cao rộng của bầu trời và chiều dài của dòng sông. Màu tím biếc đặc trưng của xứ Huế khiến cho bức tranh thêm phần mơ mộng, lãng mạn . Và trên bầu trời cao rộng kia xuất hiện tiếng chim chiền chiện vui tươi, rộn ràng, như một lời hoan ca, chào đón mùa xuân. Một cách rất tự nhiên, nhà thơ đưa tay hứng lấy những “giọt long lanh rơi”. Giọt này là giọt gì, giọt sương, giọt mùa xuân, hay giọng hót của chim chiền chiện đã ngưng đọng thành từng giọt. Dù hiểu theo cách nào ta cũng đều thấy được sự trân trọng, nâng niu của tác giả trong từng hành động. Câu thơ đã cho thấy cảm xúc say sưa, ngây ngất, của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Huế.
Từ cảm xúc của mùa xuân xứ Huế, Thanh Hải nâng lên thành niềm tự hào trước mùa xuân của đất nước:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Những hình ảnh thơ thật đẹp, đã tóm tắt được hai lực lượng chính của đất nước ta. Hình ảnh người cầm súng gợi nhớ đến những chiến sĩ chiến đấu dũng cảm bảo vệ tổ quốc. Hình ảnh người ra đồng lại thể hiện sự vững chắc của hậu phương, sản xuất để hỗ trợ tiền tuyến. Giữa họ là những thực thể không thể tách rời, thực hiện nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng, bảo vệ tổ quốc. Trong câu thơ xuất hiện hai từ “lộc”, nhưng mỗi từ mang lại những liên tưởng khác nhau. Từ lộc thứ nhất gợi nhớ đến những nhành cây trên ba lô ngụy trang người chiến sĩ, người lính mang theo sức sống của dân tộc. Còn từ “lộc” thứ hai lại gợi nhớ đến hình ảnh của những cánh đồng xanh mướt, tràn đầy sự sống. Chính con người đã mang lại sức sống cho thiên nhiên và đất nước. Trong cuộc đua ấy, con người trở nên hối hả, vội vã hơn. Đây cũng là tiếng reo vui trong tinh thần lao động khẩn trương, hăng say.
“Đất nước bốn ngàn năm/ Vất vả và gian lao/ Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước”. Khổ thơ nói về hành trình gian khổ, vất vả của đất nước trong việc xây dựng và bảo vệ. Trong bốn ngàn năm đó, chúng ta đã phải đối mặt với nhiều kẻ thù nguy hiểm, nhiều người đã hy sinh vì sự độc lập của dân tộc. Nhưng mặc dù gian khổ, vất vả, đất nước vẫn tiếp tục tiến lên hướng tương lai sáng sủa. Đất nước được ví như một ngôi sao, vĩnh cửu tồn tại trong vũ trụ, đại diện cho sự tồn tại của dân tộc. Bên cạnh đó, từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện niềm tin, quyết tâm cao độ của tác giả vào sức sống của quê hương, đất nước.
Những vần thơ cuối cùng của bài thể hiện ước nguyện chân thành, mãnh liệt cống hiến cho đời, cho đất nước:
Chúng ta làm con chim hót
Chúng ta làm một cành hoa
Chúng ta hòa mình vào bản ca
Một nốt trầm dịu dàng.
Tác giả ước mình là một con chim mang lại tiếng hót cho đời, ước làm một cành hoa tươi thắm làm cho cuộc đời thêm phần tươi mới. Và đặc biệt tác giả muốn làm một nốt trầm dịu dàng cống hiến cho bản nhạc cuộc sống. Một ước nguyện khiêm tốn, đẹp đẽ. Đặc biệt ở đây có sự chuyển đổi đại từ, từ “tôi” ở đầu tác phẩm đến đây là “chúng ta” như một lần nữa khẳng định, đây không chỉ là ước nguyện cá nhân của tác giả mà là ước nguyện chung của nhiều người. Họ cống hiến cả tuổi trẻ, cả thanh xuân “Dù là tuổi hai mươi” hay khi “dù là khi tóc bạc” nguyện ước ấy vẫn chân thành và không hề thay đổi. Đây là một lẽ sống đẹp đẽ và đáng trân trọng, và đáng trân trọng hơn khi bài thơ được sáng tác vào những ngày tháng cuối cùng của tác giả.
Bài thơ không chỉ mang tính “hùng biện” mà còn chứa đựng tính “du dương”. Tính du dương được thể hiện qua nhạc điệu trong sáng, thiết tha. Thể thơ năm chữ của bài thơ giàu nhịp điệu, biến đổi linh hoạt cùng với sự kết hợp hài hòa từ điển và ngôn ngữ giản dị nhưng giàu ý nghĩa biểu tượng. Cấu tứ thơ chặt chẽ, mạch thơ logic, hợp lí. Cuối cùng, giọng thơ có sự biến đổi linh hoạt: từ điệu vui tươi, háo hức đến trầm lắng, nghiêm trang bộc lộ những tâm nguyện.
Mùa xuân nhỏ bé là tác phẩm xuất sắc của Thanh Hải, truyền đạt những thông điệp về lối sống cống hiến cho cuộc sống. Đồng thời, bài thơ cũng là minh chứng cho quan điểm “thơ là hùng biện du dương”. Nó cũng giúp người đọc nhận thức, khuyến khích sáng tạo nghệ thuật phải luôn hướng về cuộc sống.