Phân tích sức hấp dẫn trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu với khung bố cục chi tiết cùng 4 mẫu văn hay kèm theo. Điều này giúp các bạn lớp 11 có thêm nhiều tài liệu tham khảo, mở rộng kiến thức và ý tưởng khi viết văn.
Với 4 mẫu văn về sức lôi cuốn của bài thơ Vội vàng, bạn sẽ hiểu thêm về một tâm hồn đam mê cuộc sống, một trái tim trẻ trung nhiệt huyết, một nghệ sĩ tài ba và tình yêu sâu đậm. Hãy khám phá thêm nhiều bài văn thú vị khác trong chuyên mục Văn 11.
Khung bố cục phân tích sức cuốn hút trong bài thơ Vội Vàng
I. Bắt đầu:
- Việc sáng tạo ra một tác phẩm lôi cuốn với độc giả không bao giờ dễ dàng và không phải ai cũng có khả năng thực hiện điều kỳ diệu đó.
- Đáng kinh ngạc là Xuân Diệu, được biết đến là nhà thơ xuất sắc nhất trong thời kỳ 1932-1945, đã tạo ra một sức hút mới mẻ trong bài thơ Vội vàng của mình.
II. Phần chính:
* Sức hấp dẫn đến từ:
- Khát khao chi phối tự nhiên 'tắt bóng', 'buộc gió' => Tính cách kiêu ngạo và tinh nghịch của người viết tạo nên điểm nhấn cho cả bài thơ.
- Vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân => Gợi nhớ về vẻ đẹp của tình yêu, tuổi trẻ.
- Hình ảnh lôi cuốn 'ánh sáng nhấp nháy trong hàng mi', trong ánh mắt nồng nhiệt của Xuân Diệu, sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người tạo nên khoảnh khắc tuyệt vời.
- Liên tưởng độc đáo, mới lạ 'Tháng giêng tươi đẹp như một đôi môi gần kề' => Vẻ đẹp của mùa xuân tựa như đôi môi rạng rỡ của cô gái tuổi đôi mươi.
=> Triết lý mới về cuộc sống: Hạnh phúc luôn hiện diện xung quanh chúng ta, từ những điều giản dị, thân thuộc nhất.
- Tư duy về tuổi xuân giữa mùa xuân, triết lý về thời gian, về cuộc sống
- Nỗi buồn, lo sợ và ân hận về việc tuổi trẻ, về mùa xuân, lo sợ chúng sẽ trôi qua quá nhanh.
- Xuân Diệu nhắm đến một triết lý sống mới, sống 'vội vã' để trải nghiệm tất cả vẻ đẹp của mùa xuân, của cuộc sống, không để bỏ lỡ bất kỳ khoảnh khắc nào.
III. Kết luận:
- Đầu tiên là từ cảnh thiên nhiên thực sự thu hút tâm hồn độc giả, từ đó dễ dàng gợi nhớ đến bức tranh tình yêu, bức tranh cuộc sống tràn đầy sức sống của tuổi trẻ.
- Thứ hai là từ những quan điểm về thời gian, về cuộc đời, về sự thật của cuộc sống đầy sức hấp dẫn và mới mẻ.
- Thứ ba là đến từ những biện pháp nghệ thuật đặc sắc trong thơ ông, đáng lưu ý nhất là những hình ảnh, những liên tưởng đầy sáng tạo và có phần táo bạo đã góp phần làm cho Vội vàng trở nên đặc biệt hơn cả.
Phân tích sức hấp dẫn trong bài thơ Vội vàng - Mẫu 1
Việc sáng tạo ra một tác phẩm có sức hấp dẫn với độc giả không bao giờ dễ dàng và không phải ai cũng có thể làm được điều kỳ diệu ấy. Thế mà Xuân Diệu, không hổ danh là nhà thơ xuất sắc nhất trong thời kỳ 1932-1945, đã tạo ra một sức hấp dẫn mới lạ trong bài thơ Vội vàng của mình. Thơ ông không viết về những điều cao xa bay bổng, mà viết về những khát vọng thực tế của con người. Thông qua đó, những quan điểm, những chân lý sống của ông dần được thể hiện trong bài thơ. Người đọc từng lần đọc, càng đọc càng thấu hiểu, càng đọc càng thấy hấp dẫn. Điều này là nhờ vào sức hấp dẫn đặc biệt từ những dòng thơ tự do và nồng nàn, nhiệt huyết của Xuân Diệu.
Từ 4 dòng thơ đầu tiên, người đọc đã cảm nhận được sức hút mới lạ của bài thơ. Xuân Diệu không đi theo lối mòn cũ, ông không chấp nhận bị thiên nhiên chi phối, điều khiển mà thay vào đó, ông tự mình có những suy nghĩ phản đối tạo hóa, của một tâm hồn thơ với cái 'tôi' giao hòa giữa sự kiêu ngạo và hồn nhiên. Xuân Diệu mong muốn kiểm soát, điều khiển tạo hóa, ông muốn 'tắt nắng', 'buộc gió' để màu sắc không bị phai nhạt, để hương thơm không bay đi. Chính vì vậy, mới hiểu được, Xuân Diệu yêu thích và trân trọng từng khoảnh khắc đẹp của mọi thứ trên trời đất như thế nào, nên mới có những suy nghĩ đầy nguyên tắc, táo bạo như vậy.
Ở những dòng thơ tiếp theo, người đọc lại cảm nhận được một tâm hồn thơ đầy nồng nàn, bay bổng, lãng mạn và tràn đầy nhiệt huyết của tuổi trẻ, của con người đang yêu. Trong đôi mắt của nhà thơ, mọi thứ đều tươi đẹp tràn đầy sức sống, như ong bướm vui 'lượn lờ', hoa khoe sắc tươi rực rỡ trong đồng xanh màu 'xanh tươi', rồi thì 'lá xanh mát của cây'. Điểm sáng cho bức tranh vô cùng rực rỡ ấy là tiếng chim yến và chim anh hát mừng mùa xuân với 'khúc tình yêu' đầy cuốn hút. Mỗi sáng thức dậy là một niềm vui tựa như 'thần may mắn mở cửa', ánh nắng mặt trời trong đôi mắt đa tình, lãng mạn của Xuân Diệu chỉ thực sự đẹp khi chiếu lên hàng mi khép kín của cô gái trẻ, đó là một hình ảnh rất quyến rũ, đưa người ta đến cảm giác yêu đương ngọt ngào, đó là cảm giác tươi trẻ tuyệt vời biết bao.
Câu 'Tháng giêng ngọt ngào như đôi môi gần kề', đôi khi khiến người đọc bất ngờ bởi cách liên tưởng đầy mới mẻ và gợi cảm của Xuân Diệu, và có lẽ chỉ ông mới có khả năng liên tưởng tuyệt vời như vậy. Mùa xuân trong tâm hồn thi sĩ đa tình, trở thành hương vị đặc biệt, cũng trở thành đôi môi quyến rũ ngọt ngào của cô gái trẻ. Hỏi có ai không mong đợi được ôm trọn trong vòng tay của mùa xuân? Cuộc sống trong thơ Xuân Diệu mang một vẻ đẹp rất hài hòa, tràn đầy sức sống, gợi lên một cảm giác hạnh phúc thật gần gũi. Từ đó, người ta nhận ra một chân lý sâu sắc về cuộc sống, hóa ra hạnh phúc không phải là những điều xa xôi tận chốn tiên cảnh mà thơ xưa thường kể, với những ước mơ tự do phiêu bạt trên đó. Mà hạnh phúc đến từ những điều giản dị, gần gũi nhất bên cạnh chúng ta ở nơi này, tại sao lại không ai hay?
Trong cảm giác hạnh phúc tràn ngập như thế, Xuân Diệu bỗng dừng lại 'Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa/Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân'. Ông nhớ đến mùa xuân ngay giữa mùa xuân, vừa đam mê trải nghiệm, lại vừa bị chiếm bởi cảm giác tiếc nuối, luyến tiếc, đó chính là điều đặc biệt trong thơ Xuân Diệu. Từ dòng cảm xúc đó, Xuân Diệu đã trình bày một loạt quan điểm về thời gian, về vòng xoay của tự nhiên.
'Xuân đang đến, nghĩa là xuân đã qua,
Xuân vẫn trẻ, nghĩa là xuân sẽ già,
Nhưng khi xuân tới, nghĩa là tôi cũng phai nhạt.'
Xuân Diệu với một tâm hồn nhạy cảm và nỗi ám ảnh về thời gian, nhận ra quy luật tuần hoàn của mùa xuân, nhưng cũng nhận ra sự buồn bã của cuộc sống, rồi ai cũng phải già đi, trở về với cõi hư vô, để mùa xuân ở lại. Từ những nhận thức đó, nỗi lo sợ của Xuân Diệu chuyển sang sự oán trách, trách đất, trách trời, một lần nữa tính cách ngạo nghễ và hồn nhiên của Xuân Diệu được thể hiện.
'Trái tim rộng lớn, nhưng số phận cứ eo hẹp,
Không cho đời dài lâu sự trẻ của con người,
Nói gì về việc xuân luôn tuần hoàn,
Nếu đến một lần nữa cũng không phải để gặp lại.'
'Dù trời đất còn, nhưng lòng tôi đã mất mãi/Nên tôi nuối tiếc cả trời đất' là hai câu thơ thể hiện rõ nhất tâm trạng của Xuân Diệu, ông vừa buồn vì sợ thời gian trôi đi kéo theo cuộc đời ngắn ngủi mấy mươi năm của mình, khi mà ông chưa kịp tận hưởng hết vẻ đẹp của cuộc sống, chưa tận hưởng hết hạnh phúc trên đời. Ông cũng vừa tiếc nuối những vẻ đẹp tuyệt vời tại trần gian, những thứ khi mà về cõi vĩnh hằng chẳng thể nhìn lại được nữa. Xuân Diệu luôn như thế, chung quy lại vẫn là nằm trọn trong một chữ 'tiếc', tiếc cuộc sống, tiếc tuổi trẻ sao trôi đi quá nhanh. Và không chỉ nỗi buồn riêng trong lòng Xuân Diệu, dòng chảy thời gian không chỉ buông tàn nhẫn với cuộc đời con người mà nó dường như để lại nỗi buồn khắp vũ trụ, vạn vật cũng nhuốm nỗi buồn, nhuốm màu chia ly, nhận thấy điều ấy trong đoạn thơ sau.
'Mùi tháng, năm đều rớm vị chia ly,
Khắp sông, núi vẫn thầm tiễn biệt...
Cơn gió xinh thì thầm trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...'
Câu thơ 'Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...' nghe thật day dứt và tha thiết làm sao, bởi đời người vốn chỉ sống một lần, qua rồi thì làm sao quay lại được. Đến đây ta mới thật thấu hiểu nỗi lòng của Xuân Diệu, thấu hiểu cái nỗi buồn, cái vội vã, vồ vập trong thơ ông là vì sao, vì ông sợ không kịp.
Sau những vần thơ rất suy tư và nồng nàn, Xuân Diệu chợt như bừng tỉnh giữa giấc mộng to lớn, ông đã nhanh chóng tìm cho mình một lối thoát giữa muôn vàn nỗi hoang mang về cuộc đời. Và câu trả lời ấy chỉ gói gọn trong hai chữ ở nhan đề bài thơ là 'Vội vàng'. Lời thơ ông như thúc, như giục 'Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm'. Chân lý mới về cuộc đời của Xuân Diệu lại được ông đưa vào những vần thơ của mình, sống là phải tận hưởng hết khi còn có thể, đừng để lỡ bất kỳ một phút giây nào của cuộc đời của tuổi trẻ. Xuân Diệu khao khát tận hưởng những vẻ đẹp của cuộc sống, tựa như nỗi khao khát về một tình yêu cực kỳ mãnh liệt và nồng nàn.
Những từ 'ôm', 'riết', 'thâu' cho thấy được cái khát vọng đến điên cuồng và tha thiết vô cùng của ông hoàng thơ tình. Ông muốn tận hưởng tất cả những gì đẹp nhất trần đời ấy, được phiêu lãng, chu du, được tự do trong 'mây đưa và gió lượn', trong sự ngọt ngào đắm say của tình yêu, và hơn tất cả ông muốn 'thâu' tất cả lại thành một rồi đặt trong một nụ hôn thật nồng thắm. Ông say mê, điên cuồng trong mùi thơm, trong ánh sáng, đã đầy và no đủ, như một kẻ đói lâu ngày mới gặp một bữa tiệc no đủ. Câu chốt bài 'Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi', có lẽ chẳng ai viết được câu thơ vừa hoang đường vừa gợi cảm đến vậy, phải khát khao điên cuồng đến bậc nào, mà Xuân Diệu lại muốn 'cắn' vào một mùa xuân vô hình như vậy. Đó là sự hấp dẫn trong lối viết phóng khoáng của Xuân Diệu.
Sức cuốn hút trong thơ của Xuân Diệu không chỉ đến từ vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn từ sự hiểu biết sâu sắc về thời gian, về cuộc sống, và từ những biện pháp nghệ thuật đặc sắc trong thơ ông. Đọc Vội vàng, người ta như bị cuốn vào từng nhịp thơ của Xuân Diệu, bài thơ có một sức hút chẳng thể chối từ, đẹp đẽ, mới lạ và hấp dẫn là những mỹ từ xứng đáng để nói về tác phẩm này.
Phân tích sức hấp dẫn bài thơ Vội vàng - Mẫu 2
Không phải ngẫu nhiên mà Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam (1941) đã nhận xét về thơ Xuân Diệu: Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Đọc Vội vàng chúng ta mới thấy hết được nguồn sống rào rạt chưa từng thấy đó và cũng chính nó tạo nên sức hấp dẫn của bài thơ.
Dựa vào nội dung hình tượng và lối chuyển đổi xưng hô, chúng ta có thể cảm nhận bài thơ theo bố cục hai phần rõ rệt: Phần đầu từ (Tôi muốn tắt nắng đi cho đến Mùa chưa ngả chiều hôm): ở đây thi sĩ xưng tôi là muốn bộc bạch với mọi người, với cuộc đời. Phần hai là phần còn lại. Thi sĩ xưng ta là muốn đối diện với toàn thể sự sống trần gian - đối tượng cần tận hưởng.
Tuy vậy, hai phần thơ lại chuyển tiếp rất tự nhiên về cảm xúc, rất chặt chẽ về lí luận. Đi vào phân tích cụ thể bài thơ ta sẽ thấy điều đó:
Khai mạc bài thơ, Xuân Diệu thể hiện một khát vọng kỳ lạ đến mức ngông cuồng;
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
Trong làng thơ mới, Chế Lan Viên thấy cuộc đời tất cả là vô nghĩa, là khổ đau. Không hứng thú với mùa xuân, người thanh niên này muốn ngăn bước chân bằng những gì còn sót lại từ mùa thu trước. Những lá và rơi, muôn cánh hoa tàn... với tất cả ý thu góp lại tạo nên một hàng rào tâm tưởng để chắn nẻo xuân sang. Trong bài thơ 'Vội vàng', Xuân Diệu dường như lại có thái độ khác hẳn: thi sĩ cũng muốn đạt quyền của tạo hóa: muốn tắt nắng, muốn buộc gió để cho hương sắc của mùa xuân đừng bay đi. Bằng lối điệp ngữ, cấu trúc câu, nhà thơ đã diễn tả điều này một cách thành công.
Lý do Xuân Diệu có khát vọng kỳ lạ đó là vì dưới con mắt của ông, mùa xuân đầy sức hấp dẫn, đầy sức quyến rũ:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si.
Mùa xuân - thời kỳ của tình yêu, của sự sống đã được thể hiện trong thơ ca hàng nghìn năm, nhưng trước Xuân Diệu, có lẽ chưa ai có bốn dòng thơ tương tự. Đây là mùa xuân tươi đẹp, bướm ong vẫn bay, chim hót vang, lá non phơ phất trên cành, hoa nở trên đồng ruộng. Đặc biệt là vạn vật như căng tràn sức sống, hòa quyện vui vẻ. Bằng cách linh hoạt sử dụng các từ ngữ, hình ảnh này đây, những dòng thơ tạo ra ấn tượng về một mùa xuân trọn vẹn, thiên nhiên phong phú bất tận như mời gọi, như rủ rê sẵn sàng hiến tặng cho con người.
Táo bạo nhất, mới lạ nhất chính là mấy câu thơ tiếp theo:
Và đây, ánh sáng lấp lánh trên hàng mi,
Mỗi buổi sáng, Vui thần vẫn đến gõ cửa,
Tháng giêng ngọt ngào như một cặp môi gần.
Mỗi sáng, thi sĩ thức dậy, mở mắt ra là được chứng kiến một khung cảnh mới mẻ, đẹp đẽ: bình minh sáng chói soi sáng thế giới. Ánh sáng đó như phát ra từ đôi mắt tuyệt vời của người đẹp, mỗi khi nàng nháy mắt. Trong một bài thơ khác, Xuân Diệu đã tái hiện hình ảnh gợi cảm này:
Tà áo mới vẫn say sưa với sắc gió nước;
Làn mi dài lung linh dưới ánh dương hạnh phúc
(Xuân mới)
Thơ của Xuân Diệu mỗi câu cũng xanh tươi, biếc như lá non. Nhưng cái ấn tượng nhất, tươi đẹp nhất vẫn là câu: 'Tháng giêng ngon như một cặp môi gần'. Ở đây, nhà thơ sử dụng so sánh mạnh mẽ, táo bạo, tập trung vào cảm giác, để gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Đối với thi sĩ, mùa xuân như một cô gái kiều diễm, hồng hào, tình tứ, đầy sức hút... Con người, trong tâm trí của ông, giống như một thiếu nữ - một tác phẩm tuyệt vời của tạo hóa, là tiêu chuẩn vẻ đẹp trên thế gian này. Xuân Diệu từ quan niệm thẩm mỹ đó, đã sáng tạo ra nhiều câu thơ mới lạ, đầy sức hút:
... Lá liễu dài tựa nét mi
Hơi gió thổi như hơi thở người yêu dấu...
Nhìn vào thế giới với đôi mắt xanh non, biếc rờn, Xuân Diệu phát hiện ra nhiều điều mới lạ, khác biệt so với các nhà thơ trước đây. Ông thấy rằng trong thiên nhiên, trong con người xung quanh ta, có nhiều điều thú vị, đáng yêu đáng quý.
Cuộc sống là như vậy! Rất đẹp và lôi cuốn nhưng không ai có thể sống mãi mãi để trải nghiệm mọi niềm vui. Thời gian trôi đi, tuổi xuân dần phai nhạt, chính là cuộc sống.
Xuân đến, có nghĩa là xuân đi
Xuân vẫn non, có nghĩa là xuân sẽ già.
Cách thức trình bày của Xuân Diệu chống lại quan niệm truyền thống của thơ. Trong thơ cũ, thời gian được coi là tuần hoàn, như một vòng xoay tái diễn, mang tính siêu hình, sử dụng sinh mệnh vũ trụ làm thước đo. Xuân Diệu phản đối quan niệm này, xem thời gian như một dòng chảy tuyến tính, không trở lại. Với ông, mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất mãi. Ông chọn cái nhìn động, biện chứng về thời gian:
Xuân đến, có nghĩa là xuân đi
Xuân vẫn non, có nghĩa là xuân sẽ già.
Do đó, thi sĩ không chờ nắng hạ mới mong mùa xuân.
Thực tế, trong thơ cổ, có nhiều bài ca về sự hạn hữu của cuộc sống. Nhưng người xưa không sợ hãi. Họ tin rằng vũ trụ sẽ thêm vào sự vĩnh cửu của đất trời. Nhưng Xuân Diệu và thơ mới chỉ nhìn thấy thời gian không trở lại và vũ trụ là một thực tế độc lập với con người. Ông nhận thức rõ hơn bất kỳ ai về sự thất vọng: Tuổi trẻ chỉ đến một lần; mặc dù mùa xuân vẫn quay vòng, vũ trụ có thể tồn tại mãi mãi.
Ở đây, niềm vui rạng rỡ ở phần trước dường như biến mất, để lại nỗi buồn sâu lắng về cuộc sống. Nhưng nỗi buồn không phải là biểu hiện của sự tuyệt vọng, mà là biểu hiện của sự yêu thích cuộc sống. Cảm xúc này được thể hiện qua những hình ảnh và màu sắc của mùa xuân, như chúng ta đã thấy ở phần đầu của bài thơ:
Con gió êm đềm trong lá xanh biếc
Liệu có buồn vì phải rời xa không?
Chim hòa mình trong tiếng hát phơi phới
Có sợ vì sắp phải chấm dứt không?
Cách cảm nhận về thời gian xuất phát từ ý thức sâu xa về giá trị của cuộc sống cá nhân. Mỗi khoảnh khắc trong cuộc sống cá nhân đều vô cùng quý giá. Cảnh xuân càng trở nên lộng lẫy, cuộc sống càng đáng sống đáng yêu hơn bao giờ hết.
Thái độ ngông cuồng của tác giả muốn đoạt quyền của tạo hóa để tắt nắng, buộc gió ở đầu bài thơ được giải thích.
Tuy nhiên, khát vọng này không bao giờ có thể thành hiện thực. Người thơ phải tuân theo quy luật của đất trời. Vậy nên, chỉ còn cách sống vội vàng, tận dụng từng giây, từng phút của tuổi thanh xuân. Ý tưởng này được thể hiện qua đoạn thơ cuối:
Ôm lấy sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Riết mây đưa và gió lượn
Say cánh bướm với tình yêu
Xuân hồng ơi, ta muốn cắn vào ngươi!
Cảm xúc tràn trề đã khiến Xuân Diệu tìm đến sử dụng ngôn từ đặc biệt. Ông tạo ra những làn sóng ngôn từ đan xen, cộng hưởng theo chiều tăng tiến, dâng lên cao trào. Phối hợp các hệ thống trùng điệp, lối vắt câu đã tạo ra giá trị thẩm mỹ đặc biệt cho bài thơ.
Phần cuối của bài thơ tổ chức thành tiếng lòng của khao khát mãnh liệt, biểu hiện qua chuỗi điệp cú: Ôm, Riết, Say, Thâu và Cuối cùng, thể hiện sự cao trào rõ ràng.
Sự hỗ trợ của các hệ thống điệp từ khác nhau như liên từ, non nước, cây cỏ... càng làm tăng thêm sự mãnh liệt: cho chếnh choáng, cho đã đầy, cho no nê...
Hình ảnh từ, quyến rũ được tạo ra bởi các tính từ chỉ xuân sắc, động từ chỉ động thái đắm say, danh từ chỉ vẻ đẹp tươi trẻ: bắt đầu mơn mởn, mây đưa gió lượn, cái hôn nhiều, cỏ rạng, mùi thơm, ánh sáng, thanh sắc, thời tươi, xuân hồng...
Tất cả những phương tiện ngôn ngữ và ngôn từ được sử dụng tinh vi, chuyển tải được tình ý mãnh liệt và táo bạo của thi sĩ, chứng tỏ Xuân Diệu là một bậc thầy về tiếng Việt.
Vội vàng là bài thơ tiêu biểu của một thi sĩ khao khát giao cảm với cuộc sống. Bài thơ đã giúp người đọc yêu cuộc sống hơn, tận hưởng hạnh phúc và quý trọng tuổi thanh xuân.
Phân tích sức hấp dẫn của bài thơ Vội vàng - Mẫu 3
Xuân Diệu nổi tiếng trong thơ mới thời kỳ 1930-1945. Ông đã mang đến cho thơ Việt Nam một hơi thở mới, luôn trẻ trung, nồng nàn, rực rỡ của một trái tim sôi nổi, đa tình. Trong tập Thi nhân Việt Nam (1941), Hoài Thanh viết: 'Thơ của Xuân Diệu... là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở đất nước này. Xuân Diệu đắm chìm trong tình yêu, đắm chìm trong cảnh trời, sống vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, ông luôn nồng nàn, tha thiết'.
Bài thơ Vội vàng được lấy từ tập Thơ- thơ (1938), là một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất phong cách nồng nàn, tha thiết của Xuân Diệu.
Ở đầu bài thơ, Xuân Diệu muốn giữ lại vẻ đẹp của thế giới muôn màu mãi mãi:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu không phai nhạt;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương không bay đi.
Đó là ước muốn muốn thời gian ngừng trôi, muốn giữ lại mãi những điều tươi đẹp ở bên mình, muốn 'vĩnh cửu hóa' cái đẹp, để thi sĩ tôn thờ, thưởng thức.
Đó là cảm xúc phổ biến trong thơ lãng mạn trước Cách mạng tháng Tám. Chế Lan Viên không yêu mùa xuân, vì muốn 'vĩnh cửu hóa' cái buồn của mùa thu:
Người hay quay về mùa thu xưa
Mang đến cho tôi những lá vàng
Và những bông hoa đầy cánh bay
Về đây che chắn lối xuân qua.
Trong trường hợp của Xuân Diệu, ông muốn chiếm quyền của tạo hoá, 'muốn tắt nắng đi', 'muốn buộc gió lại', để hương sắc của mùa xuân 'đừng bay đi'. Bằng lối điệp ngữ, cấu trúc câu, nhà thơ đã truyền đạt ý tưởng mạnh mẽ đó một cách thơ mộng.
Vì thế, dù trái với quy luật tự nhiên, dưới con mắt của thi sĩ, mùa xuân vẫn rất hấp dẫn, quyến rũ:
Ở đây tổ ong, bướm mật đủ mùa tháng;
Này đây hoa dại rừng nở xanh rờn;
Này đây chiếc lá trên cành lung linh phất;
Chim yến đây gọi vang khúc tình si.
Điệp ngữ 'này đây' được lặp lại bốn lần, từng câu thơ như một bức tranh sinh động, rõ ràng miêu tả vẻ đẹp cụ thể của mùa xuân. Hình ảnh của tuần tháng mật của ong bướm, hoa dại nở rộ trong rừng, lá lung linh trên cành, và khúc nhạc tình si của chim yến tạo nên một không gian sống động và quyến rũ. Xuân Diệu giúp cho cuộc sống, hạnh phúc trở nên cụ thể, hiện hữu, không còn là khái niệm mơ hồ, trừu tượng.
Như nhiều bài thơ khác của ông, cảnh vật trong bài này được mô tả với sự phấn khích và sự ngạc nhiên. Những điều quen thuộc trong thơ truyền thống được tái hiện với cái nhìn mới mẻ, đầy tình yêu cuồng nhiệt của thi sĩ:
Và đây, ánh sáng lung linh trên hàng mi.
Mỗi buổi sớm, Thần Vui cất tiếng gõ cửa;
Tháng giêng rực rỡ như một đôi môi gần.
Mỗi sáng, khi bình minh về, chúng ta thấy ánh sáng mặt trời rạng rỡ. Nhưng với tài năng và trái tim lãng mạn của thi sĩ, ánh sáng ấy tựa như phản chiếu từ đôi mắt đẹp của một thiếu nữ mỗi khi nàng nhấp mắt.
Trong một tác phẩm khác, Xuân Diệu cũng đã tái hiện hình ảnh gợi cảm này:
Chiếc áo mới say sưa với sắc gió và nước;
Rừng mi dài lay động dưới ánh dương hân hoan.
(Mùa xuân đầu)
Chúng ta cũng có thể thấy cách mô tả này trong một truyện ngắn có tên Lệnh, xuất bản trong tập Trường Ca (1945): “Khi tâm hồn rộn rã, ánh sáng chiếm hết không gian, ôm trọn vũ trụ, làm cho bóng tối phải nhường chỗ. Đôi mi ánh sáng thật dài, tia sáng thật đậm (...) Ánh sáng đọng lại ở một chỗ trong khi ánh sáng chiếu sáng khắp nơi, con mắt người thấu suốt mọi vật.”
Tuy nhiên, trong bài thơ Vội vàng, câu gây ấn tượng mạnh nhất chính là:
Tháng giêng tươi đẹp như một đôi môi gần kề.
Sự so sánh rất độc đáo! Điều độc đáo đó cũng phản ánh rõ quan điểm về vẻ đẹp của Xuân Diệu như chúng ta vừa phân tích: đó là cái đẹp thực tế, cụ thể - một cách cảm nhận chưa từng thấy trong nghệ thuật trước đây. Tác giả ở đây cũng làm cho thời gian trở nên “cụ thể”. Tháng giêng tươi đẹp như một đôi môi gần kề;
Tôi hạnh phúc, nhưng lại vội vã một nửa;
Tôi không đợi mùa hạ mới mong chờ mùa xuân.
Trong cái nhìn của Xuân Diệu, chỉ có thời gian tuyến tính, một loại thời gian “một chiều”:
Nói gì về việc xuân vẫn quay vòng
Khi tuổi trẻ không lặp lại!
Trời đất có còn, nhưng tôi không mãi mãi...
Lý do rõ ràng khiến Xuân Diệu cảm thấy vội vàng chính là sự nhận thức về sự trôi chảy của thời gian. Ông sợ rằng thời gian sẽ trôi qua quá nhanh, cuộc sống sẽ trôi qua quá nhanh. Và vì thế, cái đẹp, cái vĩnh cửu không còn. Điều này là triết lí của bài thơ. Ông không tin, không muốn tin vào sự “tuần hoàn của thời gian”. Nhớ đến câu thơ của nữ sĩ Xuân Hương xưa:
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con
(Than thân)
Nữ sĩ Xuân Hương khát khao cái vẻ đẹp trọn vẹn, bình yên, nhưng không thể có chỉ vì “thời gian tuần hoàn”, “xuân đi xuân lại lại”; còn bây giờ, với Xuân Diệu, thì ông không muốn tin vào sự “tuần hoàn” của thời gian ấy, không thích cái “tuần hoàn” đó. Ông chỉ nhìn thấy thời gian tuyến tính, thời gian “không trở lại” đang tạo ra sự chia ly từng giờ từng phút:
Mùi tháng năm rơi rụng vị chia tay
Khắp sông núi reo gọi lời biệt ly...
“Lí lẽ” của Xuân Diệu thật kỳ lạ: nó bắt nguồn từ trái tim mãnh liệt, yêu cuộc sống, muốn giữ lại mọi thứ đẹp đẽ, muốn khẳng định bản thân mạnh mẽ và tự chủ:
Xuân sắp đến tức là xuân sắp đi
Xuân còn non tức là sẽ có ngày xuân già
Nhưng khi xuân tan tức là tôi cũng mất...
Thơ xưa đã thường nhắc đến thời gian tuyến tính, nhưng mỗi khi đề cập, các nhà thơ thường bày tỏ nỗi lòng buồn trước thay đổi của thế gian: sự biến đổi, đặc biệt là sự biến đổi của thời đại, của lịch sử, của con người và số phận con người. Cảm xúc đó thể hiện qua một dòng thơ về cuộc sống, thường là lời thở dài, buồn bã trước biến cố của số phận, “thương hải biến thành nương dâu”:
Trải qua cuộc biển dâu đầy sóng gió
Những điều nhìn thấy nhưng đau đớn lòng
(Nguyễn Du - Truyện Kiều)
Đá vẫn cứng cỏi dưới ánh trăng
Nước vẫn lưng chừng nhìn tang thương
(Bà Huyện Thanh Quan - Thăng Long xưa)
Dòng sông kia đã trở thành đồng,
Ở đó có nhà cửa, ở đâu trồng lúa và khoai...
(Tú Xương - Sông Đồng Nai)
Cảm xúc của Xuân Diệu không đi theo lối mòn đó. Đối mặt với thời gian trôi đi, Xuân Diệu không che giấu nỗi lo sợ về sự phai nhạt của cuộc sống và cái đẹp:
Gió xinh xắn lượn lờ trong chiếc lá xanh
Liệu có tức giận vì phải rời xa?
Chim vang tiếng ca rồi bỗng thầm thinh
Liệu có sợ sắp phải phai nhạt?
Ở đây, niềm vui sáng ngời từ phần trước dường như đã tan biến, nhường chỗ cho nỗi buồn vô hạn về cuộc sống tươi đẹp trên thế gian này. Nỗi u hoài ở đây là một cách khác biệt để biểu hiện sự khao khát cuộc sống, tình yêu đời mãnh liệt và sâu sắc. Tình cảm mạnh mẽ này được diễn đạt một cách tài tình thông qua những hình ảnh, màu sắc quyến rũ của mùa xuân, như chúng ta đã gặp ở phần đầu của bài thơ.
“Lý lẽ” của sự “vội vàng” ở đây đã trở nên rõ ràng: vì thời gian không chờ đợi, vì khát vọng của con người rất mãnh liệt; cả hai điều này không hòa hợp với nhau. Bi kịch? Và bi kịch sẽ là điều tất yếu nếu con người không điều chỉnh cách sống sao cho phù hợp, nếu họ không biết kiểm soát, sống cụ thể hơn, thực tế hơn trong cuộc sống!
Cái lý lẽ đó, có vẻ như là thuyết “sống nhanh” bắt đầu nổi lên trong văn học phương Tây vào cuối thế kỉ XX. Nhưng thực tế, nó phải được đặt trong bối cảnh những năm đầu của thế kỉ trước, khi văn học Việt Nam và tư duy của người Việt vẫn còn nhiều ảnh hưởng của phong cách phong kiến, luôn xa lạ, xa cách với cái cụ thể, cái thực tế, ngược lại, luôn hướng tới cái vĩnh cửu, cao cả nhưng không thực tế, xa lạ với cuộc sống hàng ngày. Phải đặt vào bối cảnh đó, chúng ta mới hiểu được rằng, bài thơ của Xuân Diệu, dù thúc đẩy cho lối sống “vội vàng”, nhưng chỉ là một cách để chống lại tư duy phong kiến cũ kỹ, thể hiện bản thân cá nhân với sự tiếp thu văn hóa phương Tây, cùng với tình yêu mãnh liệt đối với cuộc sống cụ thể, thực tế này mà thôi:
Tôi muốn ôm
Cả cuộc đời mới bắt đầu hồi sinh;
Tôi muốn mây đưa và gió hát rộn ràng,
Tôi muốn bay cùng bướm trong tình yêu,
Tôi muốn đắm mình trong một cái ôm dài,
Với dòng sông, cây cỏ, và bãi cát,
Để thấm đẫm hương thơm, để đầy ánh sáng,
Để ngập tràn sức sống của thời khắc tươi mới;
- Hỡi mùa xuân rực rỡ, tôi muốn thưởng thức vị ngọt của ngươi!
Ở đây, từ cách sắp xếp câu đến nghệ thuật sử dụng điều ngữ, từ việc dùng nhiều hình ảnh táo bạo... đều đã thể hiện rõ niềm ham sống cuồng nhiệt mê đắm của tác giả. Đặc biệt, các động từ mạnh mẽ như 'muốn ôm', 'muốn riết', 'muốn thâu'... và các tính từ mạnh mẽ như 'chếnh choáng', 'đã đầy', 'no nê' cùng với động từ 'cắn' trong câu 'Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!' đã thể hiện rõ ý chí mãnh liệt của nhà thơ muốn trải nghiệm và yêu thương cuộc sống đầy ý nghĩa. Những dòng thơ đó, tràn đầy cảm xúc, nồng nàn đã thu hút người đọc một cách mạnh mẽ. Đúng như Thế Lữ đã nhận xét: 'Ông muốn trở thành một cây kim để châm vào thế giới'.
Vội vàng thật sự là một bài thơ đặc sắc của một nhà thơ lớn luôn 'khao khát giao hòa với cuộc sống'. Đây không chỉ là một bài thơ trữ tình, triết lý nhân sinh, mà giá trị của nó còn nằm ở tình yêu cuộc sống mãnh liệt, trái tim trẻ trung và sáng tạo, tài năng vượt trội, và tinh thần đa mặt của nhà thơ... Tóm lại, bài thơ xứng đáng là một tác phẩm bất hủ trong thơ ca dân tộc Việt Nam.
Phân tích sức hấp dẫn trong bài thơ Vội vàng - Mẫu 4
Trong tác phẩm Thi nhân Việt Nam (1941), Hoài Thanh đã rất chính xác khi nhận xét về một đặc điểm của thơ Xuân Diệu: 'Thơ của Xuân Diệu là một nguồn sống tràn đầy chưa từng thấy ở nơi đây. Xuân Diệu mê đắm trong tình yêu, mê đắm trong vẻ đẹp của thiên nhiên, sống cuộc đời ngắn ngủi của mình một cách cuồng nhiệt, muốn tận hưởng mọi khoảnh khắc. Khi vui cũng như khi buồn, ông đều trải lòng, tha thiết'
Điều này hiển nhiên nhất trong bài thơ Vội vàng, được rút từ tập Thơ thơ.
Mở màn bài thơ, đầy mãnh liệt:
Tôi muốn ngừng nắng đi
Để màu sắc không phai mờ
Tôi muốn trói gió lại
Để hương thơm không bay đi.
Trong thế giới thơ mới, Chế Lan Viên cảm nhận cuộc sống “đều là vô nghĩa” là một cảm giác đau buồn. Không hài lòng với mùa xuân, thanh niên này muốn dùng những gì còn sót lại từ mùa thu trước để ngăn chặn bước chân của nó. Những chiếc lá vàng rụng, những bông hoa héo tàn... cùng với “ý nghĩa thu” tạo ra một bức tường tâm lý, để “ngăn đường mùa xuân sang”. Trong bài thơ Vội vàng, Xuân Diệu lại có quan điểm khác biệt hoàn toàn: thi sĩ cũng muốn chiếm quyền kiểm soát của thiên nhiên, “muốn ngừng nắng đi”, “muốn trói gió lại”, nhưng để cho hương thơm của mùa xuân “không bay đi”. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ, cấu trúc câu, nhà thơ đã diễn đạt ý tưởng mạnh mẽ đó một cách thành công.
Chính vì cảm nhận kỳ lạ đó, vì lí do, dưới ánh mắt của nhà thơ, mùa xuân làm say đắm, quyến rũ:
Ở đây, tụ ong bướm tinh tuần mật;
Ở đây, hoa rừng nội xanh ngát;
Ở đây, lá cây nhẹ nhàng lay;
Ở đây, yến về tổ hát khúc tình.
Mùa xuân - thời của tình yêu, của sự sống đã được thể hiện trong thơ hàng ngàn năm, nhưng trước Xuân Diệu, có lẽ chưa có ai viết như thơ tương tự. Đây là mùa xuân tươi đẹp, bướm ong bay loảng xoảng, chim hót líu lo, lá non xanh tươi trên cành, hoa nở rộ trên đồng... Đáng chú ý hơn, mọi vật đều đầy sức sống, hòa mình trong niềm vui sướng. Bằng cách linh hoạt, dồn dập các điệp từ và cấu trúc câu (“của”, “này đây”), những dòng thơ này tạo ra ấn tượng về một mùa xuân tràn đầy, thiên nhiên phong phú vô tận như một lời chào mời, sẵn lòng hiến tặng tất cả cho con người.
Tương tự như mùa thu trong bài thơ “Đây mùa thu tới”, cảnh mùa xuân trong bài này được miêu tả bằng niềm vui sảng khoái, sự hân hoan, như một điềm báo mới mẻ trong mắt của nhà thơ đam mê cuộc sống.
Đặc biệt mạnh mẽ, mới mẻ nhất có lẽ là những dòng thơ tiếp theo:
Và đây, ánh sáng lóe hàng mi,
Mỗi buổi sớm, Ánh sáng chào đón mỗi ngày;
Tháng giêng ngọt ngào như một nụ hôn gần,
Mỗi sáng, khi nhà thơ mở mắt, anh chứng kiến một cảnh tượng mới đẹp diệu. Ánh sáng bình minh chiếu sáng cả thế giới. Nó giống như tỏa ra từ đôi mắt rạng ngời của một người phụ nữ, mỗi lần cô nhắm mắt. Trong một bài thơ khác, Xuân Diệu đã tái hiện hình ảnh gợi cảm này:
Tà áo mới cũng say sưa với hơi gió và làn nước;
Rừng mi dài lay động dưới ánh dương rạng ngời,
(Mùa xuân bắt đầu)
Người đọc cũng có thể thấy cách diễn đạt này trong truyện ngắn Lệnh, được in trong tập Trường ca (1945): “Khi say mê, ánh sáng tràn ngập không gian, ôm trọn vũ trụ, đè bẹp bóng tối dưới triệu chân của nó. Đôi mắt sáng rực của ánh sáng, tia chớp của nó... ánh sáng tồn tại ở một nơi nhưng lan tỏa khắp mọi nơi”
Tuy nhiên, điểm nhấn mới mẻ, tươi mới nhất chính là câu: “Tháng giêng ngọt ngào như đôi môi gần”, ở đây, nhà thơ có sự so sánh mạnh mẽ, tập trung vào cảm giác, tạo ra ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Trong “màu xanh non” của Xuân Diệu, mùa xuân giống như một cô gái đẹp, dịu dàng, tươi tắn, quyến rũ...
Qua so sánh này, chúng ta thấy con người ở đây được mô tả như một cô gái “ tuyệt tác của tạo hóa, được Xuân Diệu coi là điểm chuẩn của vẻ đẹp trên thế giới này. Nền tảng từ triết lý thẩm mỹ ấy, Xuân Diệu sáng tạo ra những dòng thơ mạnh mẽ, mới mẻ, đầy sức sống, mang theo thông điệp nhân văn sâu sắc, mà trước đó có lẽ chúng ta chưa bao giờ thấy:
... Lá liễu trải dài như làn mi
…Gió thổi như hơi thở người yêu dấu
…Mây như những thi sĩ tình yêu thời xa xưa
Thơ xưa thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp của nàng Kiều được Nguyễn Du so sánh với thiên nhiên: đôi mắt trong veo như nước thu, nét mày thanh mảnh như đỉnh núi mùa xuân; khiến cho “hoa phải ghen thua vẻ đẹp, cây liễu cũng phải ghen tị màu xanh”. Trong Truyện Kiều, cái đẹp phúc hậu của Thúy Vân được ví như “trăng tròn trĩnh, nụ cười đằm thắm, - Hoa nở tươi nở trắng, mây mờ phai nhường sắc hồng”... Từ quan niệm về vẻ đẹp tự nhiên đến quan niệm về vẻ đẹp của con người, đã có sự phát triển qua hàng thế kỷ.
Trong phần mở đầu của bài thơ, bằng đôi mắt “màu xanh non” “màu xanh biếc”), Xuân Diệu đã nhìn nhận cuộc sống và vẻ đẹp của vạn vật có nhiều điều mới lạ so với những nhà thơ trước đây, ông phát hiện ra ở thiên nhiên, ở con người gần gũi bình dị ở xung quanh chúng ta có rất nhiều điều thú vị, đáng yêu, đáng quý.
Cuộc sống trần thế là một hành trình đẹp và hấp dẫn! Nhưng không ai có thể sống mãi mãi để trải nghiệm tất cả niềm vui. Thời gian trôi đi, tuổi thanh xuân không bao giờ quay trở lại, đúng như “thời gian làm đồng hồ cuộc sống”, “Xuân sắp đến, có nghĩa là Xuân đã đi qua - Xuân vẫn non, có nghĩa là Xuân sẽ già”. Do đó, nhà thơ này “không chờ mặt trời mùa hạ mới trông mong Xuân”.
Thực ra, trong thơ xưa, không ít bài thơ đã ca ngợi về sự hữu hạn của cuộc đời con người. Cổ nhân từng coi cuộc sống như một bóng ngựa chạy nhanh qua cửa sổ. Nhưng người xưa không vì thế mà hoảng loạn. Họ tin rằng vũ trụ là vô hạn, thời gian là vòng tuần hoàn, và con người là một phần của vũ trụ, sẽ trở lại với vĩnh cửu của thiên nhiên. Nhưng người của thời đại hiện đại, của thơ mới, Xuân Diệu chỉ nhìn thấy thời gian trôi đi mà không bao giờ trở lại và vũ trụ không có gì gắn kết với con người. Với sự tỉnh táo sâu sắc về ý thức cá nhân, nhà thơ cảm nhận sâu sắc sự thật buồn: “Tuổi thanh xuân chẳng thể quay trở lại lần hai”; dù mùa xuân của vũ trụ vẫn tuần hoàn, nhưng không có điều gì là vĩnh hằng.
Ở đây, sự hân hoan rực rỡ trong phần trên dường như đã phai mờ, nhường chỗ cho một nỗi buồn, tiếc nuối về cuộc sống tươi đẹp trên thế gian này. Nỗi buồn ở đây chỉ là một biểu hiện khác của lòng ham muốn sống, lòng yêu đời mê đắm. Tình cảm này được diễn đạt một cách tài tình thông qua những hình ảnh, màu sắc đầy quyến rũ của mùa xuân, như chúng ta đã gặp ở phần đầu bài thơ:
Con gió êm đềm thì thầm trong bóng cây xanh,
Có phải là buồn vì phải rời xa?
Chim hát vui vẻ bỗng dừng lại reo thét,
Có phải là sợ hãi trước sự phai nhạt sắp tới?
Những câu thơ trên kết hợp với những câu thơ trước đã hoàn thiện bức tranh mùa xuân trẻ trung, tươi mới trong cái nhìn say mê của nhà thơ.
Có lẽ vì ý thức rõ ràng rằng không có gì ngăn cản được bước chân âm thầm, vội vã của mùa xuân - của cuộc sống con người, nên trong tâm trí của nhà thơ: cảnh xuân càng rực rỡ - cuộc đời càng đáng sống, đáng yêu bội phần?
Điều này làm rõ ý định mạnh mẽ của tác giả, muốn chiếm lấy quyền lực của tự nhiên, để có thể “tắt đi ánh nắng” và “bắt giữ cơn gió” khi bắt đầu bài thơ. Và tất nhiên, ước mơ này không bao giờ có thể trở thành hiện thực. Nhà thơ ham muốn cũng phải chấp nhận sự vô vọng, cuối cùng, phải tuân theo quy luật nghiêm ngặt của thiên nhiên. Vì vậy, chỉ còn một cách duy nhất là sống với sự vội vã, tận dụng từng khoảnh khắc, từng phút của tuổi thanh xuân. Ý tưởng mạnh mẽ này được diễn đạt một cách mới lạ. Đoạn thơ cuối cùng sau đây chính là tổng hợp nghệ thuật của cả bài thơ, thể hiện sự tập trung vào những điểm nổi bật trong phong cách thơ của Xuân Diệu:
Ta ao ướcNắm lấy cả sự sống mới bắt đầu rực rỡ;
Ta ao ước hòa mình trong cơn mây và gió hòa nhã,
Ta ao ước mê đắm cùng đôi cánh bướm, trong tình yêu đong đầy,
Ta ao ước đắm chìm trong một nụ hôn tràn đầy
Với non nước, cây cỏ tươi mới
Để hít thở mùi thơm, ngập ánh sáng,
Để thưởng thức sắc đẹp thanh xuân dễ thương;
Xuân hồng ơi, ta ao ước được nếm trải ngọt ngào của người!
Ở đây, từ cách xây dựng câu, đến việc sử dụng ngôn từ, từ việc tạo hình ảnh táo bạo hướng đến cảm xúc, đến nhịp điệu thơ sôi động..., tất cả đều thể hiện rõ sự khao khát sống động, cuồng nhiệt của tác giả. Đúng là “ông muốn trở thành một cây kim để thu hút vạn vật xung quanh” như Thế Lữ đã nhận xét.
Vội vã thực sự là một bức tranh đặc biệt của một thi sĩ lớn luôn ao ước giao cảm với cuộc sống. Dù có thể có nhiều cách tiếp cận khác nhau đối với tác phẩm, nhưng tổng thể, bài thơ đã giúp nhiều người yêu thêm cuộc sống, hưởng thụ hạnh phúc của thế gian, và trân trọng tuổi thanh xuân không thể lấy lại, để sống sao cho không hối tiếc về những năm tháng trôi qua, không phí phạm.'