Trong văn học, truyền thuyết là một thể loại quen thuộc. Mytour cung cấp tài liệu Văn mẫu lớp 6: Kể chuyện về một truyền thuyết, hướng dẫn cách kể lại một câu chuyện truyền thuyết.
Bao gồm 18 mẫu văn mẫu lớp 6 về việc kể lại một câu chuyện truyền thuyết. Mời bạn theo dõi.
Sự tích Hồ Gươm - Câu chuyện về một truyền thuyết
Bài văn mẫu số 1
Trong thời đời của Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có một đôi vợ chồng hiền lành, chăm chỉ và đức hạnh. Mặc dù đã cao tuổi nhưng họ vẫn chưa có con. Một ngày, khi bà đi ra đồng, bà thấy một dấu chân lớn, bà đặt bàn chân vào dấu chân đó để xem sự khác biệt. Sau khi về nhà, bà có thai và mười hai tháng sau đó sinh ra một cậu bé khỏe mạnh. Hai vợ chồng rất vui mừng với điều này. Điều kỳ lạ là đứa bé đã ba tuổi vẫn chưa biết nói, chỉ biết cười và ngồi đúng nơi ai đặt đâu.
Khi giặc Ân xâm lược đất nước, hoàng đế lo lắng. Ngài sai sứ giả đi khắp nơi tìm kiếm những người tài giỏi. Đến làng Gióng, cậu bé nghe thấy tiếng sứ giả và bỗng nói: 'Mẹ ra mời sứ giả vào đây'. Khi sứ giả vào, cậu bé nói rằng: 'Sứ giả hãy trở về và yêu cầu vua chuẩn bị một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt cho tôi. Tôi sẽ đánh tan lũ giặc này'. Sứ giả bất ngờ và hạnh phúc, ngay lập tức trở về và báo tin cho hoàng đế.
Từ sau khi gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh chóng. Anh ta ăn cơm không bao giờ no. Hai ông bà không đủ khả năng nuôi con, nên họ phải nhờ bà con hàng xóm giúp đỡ. Tất cả đều rất vui vẻ và sẵn sàng giúp đỡ vì mong muốn cậu bé có thể đánh bại được quân giặc.
Trong thời điểm đó, quân giặc đã tiến đến chân núi Trâu và đất nước đang gặp nguy hiểm nghiêm trọng. Đúng lúc đó, một sứ giả mang theo ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt đến gặp chú bé. Đột nhiên, chàng trai vươn mình lên, trở thành một chiến sĩ dũng cảm. Anh ta mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên ngựa. Ngựa phun lửa, chiến sĩ dẫn ngựa lao thẳng đến nơi quân giặc đang đó. Quân giặc bị tiêu diệt từng người từng bộ. Đột nhiên roi sắt gãy, chiến sĩ dùng cụm tre bên đường đập vào quân địch. Quân địch tan tác. Những người sống sót trong đội quân thù địch hoảng loạn chạy trốn.
Chiến sĩ cô độc cùng một con ngựa leo lên đỉnh núi, cởi bỏ áo giáp sắt và để lại. Sau đó, cả anh ta và con ngựa từ từ bay lên bầu trời. Vua nhớ công lao và tôn vinh anh ta là Phù Đổng Thiên Vương, xây đền thờ ở quê nhà.
Ngày nay, đền thờ Phù Đổng vẫn còn ở làng Gióng. Người ta kể rằng những cây tre ở huyện Gia Bình đã bị thiêu cháy do ngựa phun lửa, khiến chúng chuyển sang màu vàng óng, và những vết chân ngựa đã trở thành những ao hồ liền kề. Theo truyền thuyết, ngựa phun lửa đã thiêu cháy một làng, từ đó làng đó được gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 2
Trong thời điểm đó, quân Minh xâm lược nước ta. Họ cướp bóc và làm bất công dân. Ở vùng núi Lam Sơn, Lê Lợi đã thành lập nghĩa quân và rèn luyện ngày đêm để đối phó với quân địch. Vì nghĩa quân còn non nớt, nên họ gặp nhiều khó khăn trong trận đấu.
Trong quá khứ ở Thanh Hóa, có một ngư dân tên là Lê Thận. Khi kéo lưới, anh ta phát hiện nặng nề, tưởng là cá to. Khi vớt lên, lại chỉ thấy một thanh sắt, nên vứt xuống sông. Sau ba lần như vậy, Lê Thận quyết định mang về nhà để điều tra.
Sau đó, Lê Thận tham gia vào nghĩa quân Lam Sơn và chiến đấu dũng cảm. Một lần, Lê Lợi cùng tùy tùng đến thăm nhà Lê Thận. Anh ta thấy ánh sáng phát ra từ góc nhà, Lê Lợi tiến gần để xem và phát hiện hai chữ “Thuận Thiên”. Trên đường bị giặc đuổi, Lê Lợi và tùy tùng đi qua khu rừng, nhặt được một cái chuôi gươm. Ông trèo lên cây để kiểm tra và phát hiện chuôi gươm được nạm ngọc quý giá. Lê Lợi nhớ đến lưỡi gươm của nhà Lê Thận và mang chuôi này về để gắn vào lưỡi gươm, rất phù hợp.
Một năm sau, nhờ có gươm thần giúp sức, nghĩa quân của Lê Lợi chiến thắng liên tục. Thanh danh của người Lê ngày càng lan rộng. Quân Minh bị đánh bại. Lê Lợi lên ngôi làm vua với niên hiệu là Lê Thái Tổ.
Một ngày, khi nhà vua đang đi thuyền trên hồ Tả Vọng, thấy một con Rùa Vàng nổi lên. Rùa không sợ người, nói với vua:
- Công việc đã hoàn tất. Xin vua trả lại gươm báu cho đức Long Quân.
Nghe Rùa Vàng nói xong, vua quyết định trả lại gươm báu và bày tỏ lòng biết ơn đối với Rùa Vàng và Long Quân đã cho mượn gươm để bảo vệ đất nước.
Sau khi nghe Rùa Vàng nói, vua trả lại gươm báu và nói rằng xin cảm ơn ngài và Long Quân đã cho mượn gươm để đánh tan quân giặc, bảo vệ đất nước.
Sau khi nghe, Rùa Vàng gật đầu và rồi lặn xuống hồ. Từ đó, người dân quyết định đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm (hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm).
Đây là mẫu bài số 3
Giặc Minh xâm lược nước ta. Họ coi dân chúng như cỏ rác, bóc lột chúng đến xương tủy. Tâm trí dân tộc đầy oán giận. Khi ấy, tại vùng Lam Sơn, có nghĩa quân khởi nghĩa, tuy nhiên lực lượng ban đầu còn yếu, thiếu vật dụng nên đã phải chịu thất bại.
Sau khi nhận thấy tình hình, Long Quân mới quyết định cho mượn gươm thần để họ đánh giặc. Tại vùng Thanh Hóa, có một ngư dân tên là Lê Thận đang làm nghề đánh cá. Khi kéo lưới, Lê Thận bất ngờ thấy nặng nề nhưng không phải là cá lớn. Sau khi vớt lên, anh chỉ thấy một thanh sắt và vứt xuống sông. Sau ba lần như vậy, Lê Thận quyết định mang về nhà. Sau này, Lê Thận tham gia nghĩa quân Lam Sơn và chiến đấu dũng cảm. Một lần, khi Lê Lợi đến thăm nhà Lê Thận, anh thấy ánh sáng phát ra từ góc nhà. Khi tiến đến, anh nhặt lên và nhận ra đó là một lưỡi gươm có chữ “Thuận Thiên”, nhưng không ai nghĩ đây là một lưỡi gươm.
Một ngày, Lê Lợi và các tướng bị giặc phục kích nên rút lui vào khu rừng. Lúc đi qua, Lê Lợi phát hiện một ánh sáng trên cây đa. Sau khi trèo lên, ông nhận ra đó là một chuôi gươm được nạm ngọc quý. Lê Lợi liền nhớ đến lưỡi gươm của Lê Thận và gắn chuôi vào. Lưỡi gươm vừa như in.
Một năm sau, nhờ có gươm thần, nghĩa quân Lam Sơn chiến thắng liên tiếp. Đất nước trở nên thanh thản hơn, quân Minh bị đánh bại. Lê Lợi lên ngôi vua và đổi tên là Lê Thái Tổ.
Một ngày, khi nhà vua cưỡi thuyền trên hồ Tả Vọng, anh thấy một con Rùa Vàng nổi lên. Rùa không sợ và nói với vua:
- Nhiệm vụ đã hoàn thành. Vua hãy trả lại gươm báu cho Long Quân.
Nghe lời của Rùa Vàng, vua đã trả lại gươm báu và nói:
- Cảm ơn ngài và Long Quân đã cho mượn gươm để đánh đuổi quân giặc, bảo vệ đất nước.
Rùa Vàng gật đầu và rồi lặn xuống hồ. Sau đó, người dân đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm (hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm).
Đây là bài văn mẫu số 4
Khi quân Minh xâm lược nước ta, chúng xem nhân dân ta như cỏ rác, hành động tàn bạo. Tại vùng núi Lam Sơn, nghĩa quân đã nổi dậy chống lại chúng, mặc dù ban đầu sức mạnh còn yếu, nhiều lần gặp thất bại. Đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để tiêu diệt địch.
Vào thời đó, ở Thanh Hóa, có một ngư dân tên là Lê Thận. Một đêm, Thận thả lưới ở một bến vắng như mọi khi. Khi kéo lưới lên, anh nghĩ sẽ bắt được nhiều cá. Nhưng khi thò tay vào, chỉ thấy một thanh sắt. Anh ta vứt xuống sông, sau đó lại thả lưới ở nơi khác. Kỳ lạ thay, ba lần liên tiếp vớt được thanh sắt đó. Thận đưa thanh sắt vào lửa mới phát hiện đó là một thanh gươm.
Sau này, Thận gia nhập vào nghĩa quân Lam Sơn. Một ngày nọ, chủ tướng Lê Lợi cùng đoàn tùy tùng đến thăm nhà Thận. Thấy ánh sáng từ góc nhà phát ra, Lê Lợi lại gần xem và nhận ra đó là một cây gươm. Nhưng không ai ngờ đó lại là lưỡi gươm thần.
Một lần, khi bị quân địch đuổi, Lê Lợi và các tướng chạy riêng mỗi người một hướng. Khi đi qua rừng, Lê Lợi thấy ánh sáng trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc quý giá. Nhớ đến lưỡi gươm của Lê Thận, ông mang chuôi đó đi tra vào lưỡi gươm thần và khớp hoàn hảo.
Sau một năm, nhờ có gươm thần giúp sức, nghĩa quân của Lê Lợi chiến thắng mọi nơi. Danh tiếng ngày càng lớn. Quân Minh bị đánh bại. Lê Lợi lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Lê Thái Tổ. Vua trên thuyền trên hồ Tả Vọng thì gặp Rùa Vàng đòi lại thanh gươm thần:
- Công việc lớn đã hoàn thành. Xin vua trả lại gươm báu cho đức Long Quân.
Nghe Rùa Vàng nói xong, Lê Lợi trả lại gươm báu và nói:
- Xin cảm ơn ngài và đức Long Quân đã cho mượn gươm để đánh tan quân giặc, bảo vệ đất nước.
Sau khi nghe xong, Rùa Vàng gật đầu rồi lặn xuống hồ. Kể từ đó, người dân đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Gươm hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm.
Đây là bài văn mẫu số 5
Lúc ấy, quân Minh xâm lược nước ta. Chúng xem nhân dân như rác thải, tàn bạo đến tận xương tuỷ. Khắp nơi mọi người đều căm ghét. Ở vùng Lam Sơn, có nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng, nhưng do lực lượng còn yếu, bất lực nhiều lần. Thấy vậy, đức Long Quân quyết định cho mượn gươm thần để họ đánh đuổi kẻ thù.
Ở Thanh Hoá, có một ngư dân tên là Lê Thận. Một đêm nọ, Thận đi thả lưới như mọi khi. Khi kéo lưới lên, thấy nặng nề, Thận nghĩ sẽ bắt được một mẻ cá to. Nhưng khi thò tay vào, chỉ thấy một thanh sắt. Anh ta vứt ngay thanh sắt xuống nước, rồi lại thả lưới ở nơi khác.
Lần thứ hai cũng vẫn thấy nặng tay, Thận không ngờ lại câu vào lưới. Anh ta lại ném xuống sông. Lần thứ ba, vẫn câu được thanh sắt. Thấy lạ, Thận đưa thanh sắt đến gần lửa nhìn kỹ. Anh ta reo lên:
- Thì ra là một thanh gươm!
Sau này, Thận gia nhập vào đội quân nổi dậy Lam Sơn. Một ngày, chủ tướng Lê Lợi cùng vài người tùy tùng đến thăm Thận. Trong bóng tối của lều, thanh sắt hôm đó tự nhiên sáng lên ở góc nhà. Thấy lạ, Lê Lợi cầm lên xem và nhận ra hai chữ “Thuận Thiên” khắc sâu trên lưỡi gươm. Nhưng vẫn chưa ai biết được điều gì.
Một lần bị giặc tấn công, Lê Lợi và các tướng rút lui mỗi người một hướng. Khi đi qua rừng, ông thấy ánh sáng lạ trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, ông lấy chuôi gắn vào lưng.
Mấy ngày sau đó, Lê Lợi gặp lại mọi người, trong đó có Lê Thận. Lê Lợi kể chuyện về chuôi gươm cho họ nghe. Sau đó, đem chuôi gươm tra vào lưỡi gươm và khớp hoàn hảo như in.
Lê Thận quỳ xuống, nâng lên thanh gươm và nói:
- Đây là ý trời phó thác cho chúng tôi có công làm việc lớn. Chúng tôi sẵn sàng theo minh công, cùng với thanh gươm bảo vệ tổ quốc.
Kể từ khi có thanh gươm quý, năng lượng của nghĩa quân ngày càng tăng. Quân Minh liên tục bị đánh bại. Đất nước giành được độc lập. Chủ tướng Lê Lợi lên ngôi vua.
Một năm sau đó, nhà vua cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng. Nhân dịp này, đức Long Quân sai Rùa Vàng đến đòi lại thanh gươm quý. Rùa Vàng không sợ người, nhô đầu cao hơn nữa và tiến về phía thuyền vua. Nó đứng trên mặt nước và nói: “Xin vua hoàn trả lại thanh gươm cho Long Quân!”.
Vua giơ gươm hướng về Rùa Vàng. Rùa lập tức há miệng lấy thanh gươm và rồi lặn xuống nước. Từ đó, hồ Tả Vọng được đổi tên thành hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.
Truyền kể về Thánh Gióng
Bài văn mẫu số 5
Hùng Vương thứ mười tám có một cô gái tên là Mị Nương. Nàng rất xinh đẹp và dịu dàng. Vua muốn tìm cho con gái một người chồng xứng đáng nên đã tổ chức lễ kén rể.
Một ngày nọ, hai chàng trai tới cầu hôn cho Mị Nương. Người đến từ vùng núi Tản Viên tự xưng là Sơn Tinh. Chàng có khả năng đặc biệt: vẫy tay về phía đông làm nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây làm nên các dãy núi đồi. Người còn lại đến từ vùng biển, có tài năng không kém: gọi gió đến, hô mưa về. Người được gọi là Thủy Tinh. Cả hai đều tài năng khiến vua phân vân, liền cho gọi các Lạc hầu vào họp bàn bạc.
Sau đó, vua lập tức gọi cả hai vào và nói:
- Cả hai người đều được lòng ta, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy nếu ngày mai ai mang được sính lễ đến trước sẽ được đưa cô về.
Hai chàng nghe xong, hỏi vua sính lễ gồm những gì. Vua Hùng đáp:
- Một trăm ván cơm nếp, một trăm nếp bánh chưng, một con voi, chín ngà, chín gà, chín cựa, chín con ngựa, chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sơn Tinh và Thủy Tinh quay về chuẩn bị lễ vật. Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước. Vua liền gả Mị Nương cho Sơn Tinh. Thủy Tinh đến sau, không kịp lấy vợ, tức giận, đem quân đánh Sơn Tinh, quyết định cướp Mị Nương về.
Thần Nước gọi mưa, hô gió thành dông bão làm đất trời rung chuyển. Nước dâng cao ngập lụt khắp nơi. Thành Phong Châu trôi nổi trên biển nước. Dân chúng gặp nhiều khó khăn. Tuy vậy, Sơn Tinh vẫn bình tĩnh. Thần Nước sử dụng phép mà thuôn đồi, dời núi, xây lũy đất để ngăn chặn lũ lụt. Dù nước lên cao, đồi núi cũng cao theo.
Trận chiến kéo dài suốt nhiều tháng. Cuối cùng, sức lực của Thủy Tinh suy yếu trong khi Sơn Tinh vẫn mạnh mẽ. Thần Nước phải rút quân lui. Từ đó, hận thù sâu sắc. Mỗi năm, Thủy Tinh đều dâng nước để đánh Sơn Tinh nhưng luôn bị đánh bại.
Bài văn mẫu số 1
Đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có một cặp vợ chồng sống hiền lành, giàu đức. Dù đã già nhưng vẫn chưa có con.
Một lần, người vợ thấy một vết chân to. Bà đặt chân vào để xem vết đó bằng cách so sánh. Không ngờ về nhà bà lại mang thai. Sau mười hai tháng, bà sinh ra một cậu bé xinh đẹp, tuấn tú. Lạ thay, cậu bé lớn lên đến ba tuổi vẫn chưa biết nói hay cười, và nằm ở đâu đặt ở đó.
Khi giặc Ân xâm lược nước ta, nhà vua lo lắng vô cùng và ra lệnh truyền sứ giả đi tìm người tài cứu nước. Khi đến làng Gióng, cậu bé nghe thấy tiếng rao, liền nói với mẹ:
- Mẹ ơi, mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả vào, cậu bé nói:
- Ông về báo vua làm cho con một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Con sẽ đánh bại lũ giặc này.
Sứ giả vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, vội vã trở về báo tin vua. Nhà vua giao cho thợ rèn làm những vật cậu bé yêu cầu ngay lập tức. Từ khi gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như cắt. Hai bố mẹ làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi cậu bé, phải nhờ bà con hàng xóm giúp đỡ. Ai cũng vui vẻ hết lòng bởi hi vọng cậu bé sẽ đánh bại giặc và cứu nước.
Khi giặc Ân xâm chiếm chân núi Trâu, đất nước đang trong thời điểm nguy cấp. Lúc đó, sứ giả đem đến ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt. Cậu bé tỉnh dậy, bỗng trở thành một anh hùng oai nghiêm. Vóc dáng cao vượt trượng, hùng mạnh vô cùng. Anh hùng tiến lên vỗ ngựa một cái, tiếng hí dài vang cả chốn. Anh hùng mặc áo giáp, cầm roi, nhảy lên ngựa. Ngựa phun lửa, anh hùng cưỡi ngựa phi thẳng tới địch, hạ sát từng kẻ một. Giặc chết như rạ. Bất ngờ, roi sắt gãy, anh hùng nhổ những cụm tre cạnh đường quật vào giặc. Giặc tan tác, bỏ chạy. Những kẻ tàn phái đè lên nhau để lẩn trốn. Anh hùng đuổi theo đến chân núi Trâu. Tại đây, một mình trên một con ngựa, anh hùng leo lên đỉnh núi, tháo áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời.
Vua ghi nhớ công ơn, phong anh là Phù Đổng Thiên Vương và xây dựng đền thờ tại quê hương. Những nơi mà ngựa phi qua để lại những cái ao hồ. Rừng tre bị ngựa phun lửa cháy trở thành vàng óng và có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 2
Vào thời Hùng Vương thứ mười sáu, tại làng Gióng có một đôi vợ chồng đã già nhưng chưa có một đứa con. Hai ông bà lão được biết đến là người hiền lành, đôn hậu. Tuy sống ở làng Gióng nhưng sao lại gặp sự bất hạnh như vậy? Một ngày, khi bà lão đi ra đồng, bỗng nhìn thấy một dấu chân khổng lồ. Bà lão đưa chân mình vào dấu vết để đo xem to đến đâu. Thời gian trôi qua, bà lão không còn nhớ dấu vết chân đó nữa, rồi một ngày bà thấy mình có thai. Hai ông bà lão vô cùng mừng, bà sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Nhưng đứa trẻ từ khi sinh ra đến khi lớn lên không nói, không cười, không biết đi, chỉ đặt đâu là nằm đấy. Hai ông bà từ niềm vui khi có con đến lo lắng, buồn bã vì không hiểu tại sao lại như vậy.
Lúc ấy, giặc Ân xâm lược nước ta. Chúng làm cho cuộc sống của nhân dân vô cùng khốn khổ, tình cảnh đất nước như “nghìn cân treo sợi tóc”. Nhà vua sai sứ giả đi rao tin khắp nơi, tìm người tài đứng lên cứu nước. Sứ giả đi rao tin cuối cùng cũng đến làng Gióng. Nghe tiếng sứ giả, cậu bé bỗng cất tiếng gọi mẹ: “Mẹ ơi, mời sứ giả vào đây cho con”. Thấy đứa con mình suốt bao nhiêu ngày tháng không nói, không cười bỗng hôm nay lại cất tiếng gọi mẹ, hai ông bà lão vui sướng, liền mời sứ giả vào.
Khi sứ giả đến, cậu bé ngay lập tức yêu cầu sứ giả về chuẩn bị đủ vũ khí để đi đánh giặc: Ngựa sắt, áo sắt và tấm giáp sắt để đập tan đám giặc xâm lược. Sứ giả vui mừng vội về báo tin cho nhà vua chuẩn bị. Nhà vua cũng đồng ý theo lời cậu bé. Điều đáng lưu ý, từ khi gặp sứ giả của nhà vua, Thánh Gióng lớn nhanh như thổi, cứ cơm cha mẹ mà thổi bấy nhiêu, cậu ăn xong cũng chưa no, quần áo thì chẳng mấy chốc đã chật hẹp. Cậu bé nhanh chóng trở thành một chàng trai cao lớn, khỏe mạnh, đầy oai phong.
Không bao lâu sau, nhà mua đủ những thứ mà Gióng cần. Thánh Gióng lập tức ra đường đánh giặc. Cậu đi đâu, quân giặc đó bị đánh bại. Khi kiếm gãy, Gióng chỉ cần nhổ một bụi cỏ bên đường, quật ngã đám giặc xâm lược. Một lúc sau, ngựa của Thánh Gióng đến chân núi Sóc Sơn, Thánh Gióng cởi bỏ bộ giáp sắt trên người và bay thẳng lên trời.
Để tưởng nhớ công lao của Thánh Gióng, nhà vua đã cho xây dựng đền thờ vị tướng này tại quê nhà của ông, là làng Gióng. Đến nay, vẫn còn nhiều dấu tích của người anh hùng này và hàng năm vào tháng 4, người ta vẫn đến đền Phù Đổng Thiên Vương để tri ân ông.
Bài văn mẫu số 3
Ngày xưa, vào thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có một đôi vợ chồng nổi tiếng là chăm chỉ, phúc đức. Hai ông bà mong ước có một đứa con. Một ngày, người vợ ra đồng thấy một vết chân rất lớn. Bà liền đặt chân vào ướm thử xem thua kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà lại mang thai. Mười hai tháng sau sinh ra một cậu bé. Nhưng kỳ lạ thay, đứa bé lên ba tuổi vẫn chưa biết nói, biết cười, chỉ biết nằm đâu thì nằm đấy.
Khi giặc Ân xâm lược đất nước, nhà vua lo lắng vô cùng và sai sứ giả đi tìm người có tài cứu nước. Đứa bé nghe tiếng rao, bỗng cất tiếng gọi mẹ:
- Mẹ ơi, mẹ hãy mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả đến, cậu bé liền yêu cầu với sứ giả:
- Ông về báo với nhà vua sắm cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một bộ áo giáp sắt, ta sẽ đánh tan đám giặc này.
Kỳ lạ hơn, từ sau hôm đó, cậu bé lớn nhanh như thổi, ăn cơm bấy nhiêu cũng chẳng no, áo mặc bấy nhiêu cũng không vừa. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi cậu bé, phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con hàng xóm. Ai cũng vui vẻ giúp đỡ vì mong muốn cậu bé đánh giặc cứu nước.
Khi kẻ thù xâm lược đến chân núi Trâu, đất nước rơi vào hoàn cảnh nguy kịch. Lúc đó, sứ giả mang đến ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt. Đứa bé tỉnh dậy, biến thành tráng sĩ. Tráng sĩ bước lên và vỗ vào lưng ngựa. Ngựa kêu dài vang xa, sau đó bắn lửa vào đám kẻ thù. Kẻ địch hoảng sợ và bỏ chạy. Tráng sĩ cưỡi ngựa đi đâu, dập tan quân giặc ở đó. Bỗng nổi roi sắt gãy, tráng sĩ nhặt những cành tre ven đường quật vào kẻ thù. Giặc tan vỡ, đám tàn quân đấu nhau để chạy trốn, tráng sĩ đuổi theo đến chân núi Sóc.
Khi đến đó, tráng sĩ cưỡi ngựa lên đỉnh núi một mình. Tráng sĩ cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời. Vua nhớ đến công lao của Phù Đổng Thiên Vương và cho lập đền thờ tại quê nhà. Hiện nay vẫn còn đền Phù Đổng ở làng Gióng, được biết đến là làng Gióng. Những nơi mà ngựa bay qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng và còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 4
Vào thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có hai vợ chồng hiền lành, phúc đức. Họ đã già mà vẫn chưa có con.
Một ngày, người vợ ra đồng, phát hiện một vết chân rất to. Bà đặt chân vào ướm thử. Về nhà, bà mang thai. Đến tháng mười hai mới sinh ra một đứa bé. Khi lên ba tuổi, đứa bé vẫn không biết nói, không biết cười.
Thuở ấy, kẻ thù Ân xâm lược nước ta. Sức mạnh của kẻ thù khiến nhà vua rất lo lắng. Vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp nước. Khi đến làng Gióng, cậu bé nghe tiếng rao của sứ giả, liền cất tiếng đầu tiên, bảo mẹ:
Mẹ ơi, mời sứ giả vào đây cho con!
Khi sứ giả vào, cậu bé liền nói:
Ông về tâu với nhà vua đúc cho con một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Con sẽ đánh tan lũ giặc này.
Sứ giả nghe xong thì ngạc nhiên lắm, vội về báo tin. Nhà vua nghe xong liền giao cho thợ rèn làm những món đồ cậu bé yêu cầu. Sau khi gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi, cơm bao nhiêu cũng không no, quần áo mặc bấy nhiêu cũng chật. Hai vợ chồng làm ra bao nhiêu cũng không đủ nuôi, phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà con hàng xóm. Ai cũng vui vẻ giúp đỡ vì mong cậu đánh tan quân giặc.
Lúc đó, giặc đã đến chân núi Trâu, thế nước rơi vào hoàn cảnh nguy kịch. Đúng lúc sứ giả mang đến ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt. Cậu bé tỉnh dậy, biến thành tráng sĩ. Tráng sĩ mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt rồi cưỡi lên lưng ngựa.
Ngựa hí dài mấy tiếng, sau đó phun lửa vào quân giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy. Tráng sĩ đi đâu, quân giặc đều bị đánh bại. Roi sắt gãy, tráng sĩ lấy những cụm tre bên đường đánh tan quân giặc. Thua trận, đám tàn quân đổ lên nhau chạy trốn. Lúc này, tráng sĩ cưỡi ngựa lên núi. Ở đây, tráng sĩ tháo bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời.
Để tưởng nhớ công lao, vua đã phong tráng sĩ làm Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê nhà. Những nơi ngựa phi qua để lại ao hồ. Rặng tre bị ngựa phun lửa cháy trở nên vàng óng và còn có một làng bị ngựa phun lửa cháy được gọi là làng Cháy.
Bài văn mẫu số 4
Thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng có một cặp vợ chồng hiền lành, phúc đức. Họ đã già mà vẫn chưa có con.
Một hôm, người vợ ra đồng, thấy một vết chân rất to. Bà đặt chân vào ướm thử. Về nhà, bà mang thai. Đến khi tháng mười hai, bà mới sinh ra một cậu bé. Lên ba tuổi rồi mà cậu vẫn không biết nói, không biết cười.
Vào thời đó, kẻ thù Ân xâm lược đất nước ta. Sức mạnh của giặc khiến nhà vua lo lắng. Vua sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giúp đỡ. Khi đến làng Gióng, cậu bé nghe thấy tiếng rao của sứ giả, liền lên tiếng đầu tiên, bảo mẹ:
- Mẹ hãy ra mời sứ giả vào đây cho con!
Sứ giả đến, cậu bé liền nói:
- Ông hãy về tâu với nhà vua đúc cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và một tấm áo giáp sắt. Ta sẽ đánh tan đám giặc này.
Sứ giả nghe xong thì rất ngạc nhiên, vội vàng về báo tin. Nghe tin này, nhà vua ngay lập tức cho thợ rèn làm những món đồ cậu bé yêu cầu. Sau khi gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như cơn gió, cơm ăn bao nhiêu cũng không đầy, áo mặc bao nhiêu cũng không vừa. Hai vợ chồng làm việc cật lực cũng không đủ nuôi sống, phải nhờ sự giúp đỡ của bà con hàng xóm. Ai cũng hân hoan giúp đỡ vì mong muốn cậu bé đánh bại quân giặc.
Khi đó, quân giặc đã tiến đến chân núi Trâu, đất nước đang rơi vào nguy cơ nghiêm trọng. Vào lúc đó, sứ giả đem đến ngựa sắt, roi sắt và áo giáp sắt. Cậu bé bật dậy, trở thành một anh hùng dũng mãnh. Anh hùng khoác áo giáp sắt, cầm roi sắt rồi cưỡi lên lưng ngựa.
Ngựa hí dài mấy tiếng, sau đó phun lửa vào quân giặc. Giặc hoảng sợ bỏ chạy. Anh hùng đánh giặc đến đâu, quân địch tan tác đến đó. Roi sắt gãy, anh hùng liền nhổ bụi tre đánh tan đám giặc. Thất bại, đám quân tàn phá lên nhau chạy trốn. Lúc này, anh hùng một mình cưỡi ngựa lên núi. Khi đến đây, anh hùng cởi bỏ áo giáp sắt, cưỡi ngựa bay lên trời.
Để tưởng nhớ công ơn, vua đã phong cho anh hùng là Phù Đổng Thiên Vương và lập đền thờ tại quê hương. Những nơi ngựa bay qua để lại ao hồ. Rừng tre bị ngựa phun lửa biến thành vàng óng, còn có một làng bị ngựa phun lửa gọi là làng Cháy.
Kể lại một câu chuyện cổ tích - Sơn Tinh Thủy Tinh
Bài văn mẫu số 1
Hùng Vương lúc đó có một người con gái tên Mị Nương. Nàng vừa xinh đẹp lại dịu dàng. Vua muốn tìm chồng cho con gái nên đã tổ chức lễ kén rể.
Một ngày nọ, hai chàng trai đến cầu hôn. Người đến từ vùng núi Tản Viên tự xưng là Sơn Tinh. Chàng có tài lạ: vẫy tay về phía đông thì nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây thì mọc núi đồi. Người còn lại đến từ vùng biển, tài năng cũng không thua kém: gọi gió đến, hô mưa về. Người ta gọi anh là Thủy Tinh. Cả hai đều tài năng khiến vua phân vân, cho gọi các Lạc hầu vào bàn bạc.
Sau đó, nhà vua gọi cả hai vào và nói:
- Cả hai đều hợp với ta, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy nên ngày mai ai mang được đồ lạ về trước sẽ được cưới Mị Nương.
Hai chàng nghe xong, liền hỏi nhà vua đồ lạ gồm những gì. Vua Hùng trả lời:
- Một trăm bát cơm nếp, một trăm nếp bánh chưng, con voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín vòng mào, mỗi thứ một đôi.
Sơn Tinh và Thủy Tinh quay về chuẩn bị lễ vật. Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang lễ vật đến trước. Nhà vua liền lấy Mị Nương cho Sơn Tinh. Thủy Tinh đến sau, không có được vợ, tức giận nổi lên, đem quân theo đánh Sơn Tinh, dốc sức cướp Mị Nương về.
Thần Nước gọi mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời. Nước lên cao làm ngập khắp các đồng ruộng nhà cửa. Thành Phong Châu nổi lên giữa biển nước. Dân chúng rất khốn khổ. Sơn Tinh nhìn thấy vậy vẫn không nao núng. Thần sử dụng phép lạ, di dời từng quả đồi, dời từng dãy núi, xây dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu.
Trận chiến kéo dài suốt nhiều tháng. Cuối cùng, Thủy Tinh kiệt sức mà Sơn Tinh vẫn vững vàng. Thần Nước phải rút quân về. Từ đó, oán thù sâu sắc. Mỗi năm, Thủy Tinh đều dâng nước đánh Sơn Tinh nhưng luôn thất bại.
Bài văn mẫu số 2
Vua Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Nàng xinh đẹp như hoa, tính nết dịu dàng. Nhà vua muốn kén cho con một người chồng xứng đáng nên đã tổ chức lễ kén rể.
Một ngày nọ, hai chàng trai đến cầu hôn. Một người từ vùng núi Tản Viên có tài năng đặc biệt: vẫy tay về phía đông, biển cồn bãi nổi dậy; vẫy tay về phía tây, núi non hiện ra. Người được gọi là Sơn Tinh. Người còn lại cũng có tài không kém cỏi: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Người được gọi là Thủy Tinh. Cả hai đều xuất sắc khiến vua rất phân vân, không biết lựa chọn ai. Vua quyết định gọi các quan lại vào bàn bạc, sau đó gọi hai người vào và phán:
- Cả hai người đều ưng ý của ta, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vì vậy, ngày mai ai mang được lễ đưa đến trước sẽ được đón dâu về.
Cả hai nghe xong, liền hỏi vua lễ đưa bao gồm những gì. Vua Hùng nhanh chóng trả lời:
- Lễ đưa gồm có một trăm bát cơm nếp, một trăm bánh chưng, và một con voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín vòng mào, mỗi thứ một đôi.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh đã đưa lễ vật trước. Vua rất hài lòng và quyết định cho Mị Nương gả cho Sơn Tinh. Thủy Tinh đến sau không thành công trong việc cưới vợ và tức giận, dẫn quân đánh Sơn Tinh. Thần hô mưa, gọi gió tạo thành cơn dông bão làm rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên để đánh Sơn Tinh. Nước ngập khắp các đồng ruộng và nhà cửa, nước dâng lên đến chân đồi và dốc núi, thành Phong Châu nổi lềnh bềnh trên biển nước. Tuy nhiên, Sơn Tinh không hề nao núng. Thần sử dụng phép màu, di dời từng quả đồi, từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng cao bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu.
Trận đánh kéo dài suốt mấy tháng, cuối cùng Sơn Tinh vẫn kiên cường trong khi sức lực của Thủy Tinh dần cạn kiệt, thần nước buộc phải rút quân. Từ đó, oán thù trở nên nặng nề, hàng năm Thủy Tinh lại dâng nước để đánh Sơn Tinh. Tuy nhiên, lần nào cũng là Thủy Tinh phải chịu thất bại nặng nề.
Bài văn mẫu số 3
Vua Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương. Người xinh đẹp như hoa, tính nết dịu dàng. Nhà vua rất yêu thương con gái nên muốn tìm cho cô một người chồng xứng đáng nên đã tổ chức lễ kén rể.
Khi nghe tin nhà vua muốn kén rể, hai chàng trai đến cầu hôn. Một người từ vùng núi Tản Viên có tài năng đặc biệt: vẫy tay về phía đông, biển cồn bãi nổi dậy; vẫy tay về phía tây, núi non hiện ra. Người được gọi là Sơn Tinh. Người còn lại cũng có tài không kém: gọi gió gió đến, hô mưa mưa về. Chàng tên là Thủy Tinh.
Cả hai người đều có tài năng xuất chúng nên vua Hùng phân vân không biết chọn ai. Vì thế, vua ra lệnh:
- Cả hai ngươi đều ưng ý ta. Vậy nên ngày mai ai đem được đồ sinh lễ đến sớm nhất sẽ được đón dâu về. Đồ sinh lễ gồm có một trăm ván cơm nếp, một trăm bánh chưng và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang đồ sinh lễ đến trước và lấy được Mị Nương. Thủy Tinh đến sau không thành công trong việc cưới vợ nên tức giận, dẫn quân đánh Sơn Tinh. Thủy Tinh gọi mưa, gọi gió làm dậy cơn dông bão làm rung chuyển cả đất trời. Nước ngập khắp các đồng ruộng và nhà cửa, nước dâng lên chân đồi và dốc núi, thành Phong Châu nổi lên trên biển nước. Sơn Tinh thấy thế đã bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, ngăn chặn dòng nước lũ.
Trận chiến kéo dài suốt nhiều tháng, cuối cùng Sơn Tinh vẫn giữ vững tư thế trong khi sức lực của Thủy Tinh dần cạn kiệt, thần nước buộc phải rút quân. Từ đó, oán thù càng nặng nề, hằng năm Thủy Tinh lại dâng nước để đánh Sơn Tinh, nhưng lần nào cũng thua trận.
Bài văn mẫu số 4
Ngày xưa, trong thời Hùng Vương thứ mười tám, vua có một công chúa tên là Mị Nương. Công chúa xinh đẹp như hoa, dịu dàng như nước. Vua Hùng rất yêu thương con gái mình và muốn tìm cho nàng một người chồng xứng đáng.
Một ngày kia, hai chàng trai đến cầu hôn. Người từ vùng núi Tản Viên có kỹ năng đặc biệt: vẫy tay về phía đông, phía đông biển sóng nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây núi đồi trùng điệp. Chàng là Sơn Tinh. Người đến từ biển khơi, tài năng không kém cạnh: gọi gió, gọi mưa về. Chàng là Thủy Tinh. Vua Hùng thấy cả hai tài năng xuất chúng, rất khó quyết định. Vua triệu các thần hầu để bàn bạc và phán:
- Cả hai đều hợp ý với ta, nhưng ta chỉ có một công chúa. Vậy nên ngày mai ai mang được đồ sinh lễ đến trước sẽ được đón dâu về.
Hai chàng trai nghe xong, liền hỏi vua đồ sinh lễ gồm những gì. Vua Hùng trả lời:
- Một trăm ván cơm nếp, một trăm bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Sơn Tinh và Thủy Tinh quay về chuẩn bị. Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang đồ lễ đến. Vua liền gả Mị Nương cho Sơn Tinh. Thủy Tinh đến sau không cưới được vợ, tức giận.
Thần Nước gọi mưa, gọi gió làm dông bão động cả trời đất. Nước lên cao ngập tràn các đồng ruộng nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi sườn núi, thành Phong Châu nổi trên biển nước làm dân chúng gặp nhiều khó khăn. Sơn Tinh vẫn bình tĩnh. Thần dùng phép lạ, di chuyển từng đồi đất, dịch chuyển dãy núi, xây lũy đất chặn dòng nước lũ. Nước dâng cao bao nhiêu, đồi núi cao bấy nhiêu.
Cuộc chiến kéo dài suốt nhiều tháng. Cuối cùng, đội quân của Thủy Tinh kiệt sức. Thần Nước buộc phải rút quân về. Từ đó, oán thù sâu sắc. Hằng năm, Thủy Tinh đều đem nước đến đánh Sơn Tinh. Nhưng Thần Nước vẫn không thể chiến thắng.
Bài văn mẫu số 5
Vua Hùng Vương thứ mười tám có một công chúa tên là Mị Nương. Công chúa xinh đẹp như hoa, tính cách hiền dịu. Vua yêu thương con gái mình nên muốn tìm cho nàng một người chồng xứng đáng.
Một ngày nọ, hai chàng trai đến cầu hôn. Người ở vùng núi Tản Viên có khả năng đặc biệt: vẫy tay về phía đông thì nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây thì núi đồi hiện ra. Tên chàng là Sơn Tinh. Người còn lại cũng không kém cạnh: gọi gió làm mưa đến. Chàng tên là Thủy Tinh. Nhà vua thấy cả hai tài năng bằng nhau, khó lòng quyết định, nên cho gọi các quan lại vào bàn bạc, sau đó đưa ra quyết định:
- Cả hai người đều được lòng ta, nhưng ta chỉ có một người con gái. Vậy nên, ngày mai, ai mang đồ lễ đến trước sẽ được ta gả con gái cho.
Sơn Tinh và Thủy Tinh nghe xong, liền hỏi về nội dung của đồ lễ. Vua Hùng nói rằng:
- Đồ lễ gồm có một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Nghe xong, Sơn Tinh và Thủy Tinh liền rời đi. Sáng hôm sau, Sơn Tinh mang đồ lễ đến trước và được đưa Mị Nương về. Thủy Tinh đến sau không thành công trong việc cưới vợ, liền sai quân đuổi đánh Sơn Tinh.
Thần nước kêu mưa, gọi gió làm dậy sóng to, làm rung chuyển cả đất trời. Nước lên ngập khắp các đồng ruộng nhà cửa, nước dâng cao lên lưng đồi sườn núi. Thành Phong Châu nổi trên biển nước, dân chúng khắp nơi khốn khổ. Sơn Tinh không hề sợ hãi. Thần sử dụng phép lạ, di chuyển từng đồi, từng dãy núi, xây thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Vậy là nước sông dâng lên bấy nhiêu, đồi núi cũng cao lên bấy nhiêu.
Sau mấy tháng giao tranh, hai thần sức lực kiệt. Thủy Tinh buộc phải rút quân. Từ đó, mối thù càng sâu sắc. Mỗi năm, Thủy Tinh lại đem nước tấn công Sơn Tinh, nhưng vẫn luôn chịu thất bại.
Truyện kể về bánh chưng, bánh giầy
Bài văn mẫu số 1
Vua Hùng Vương thứ sáu khi đã già muốn chọn người để truyền ngôi. Với hai mươi người con, việc chọn người kế vị là điều khó khăn. Không giống như các vị vua Hùng trước đây chỉ truyền ngôi cho con trưởng, vua Hùng Vương thứ sáu quyết định người kế vị phải có tài, làm chủ được lòng dân, không cần phải là con trưởng. Sau nhiều suy nghĩ, vua gọi các con đến và nói:
- Kẻ thù đã nhiều lần xâm lược nước ta. Nhờ sự ấm áp của Tiên vương, chúng ta đã đánh đuổi được chúng. Đất nước bình yên lại. Giờ đây, khi ta đã già nua, không còn nhiều thời gian nữa, ta muốn tìm người nối ngôi để chăm sóc cho dân chúng được ấm no, hạnh phúc. Người nối ngôi phải đồng ý với tâm ý của ta, không cần phải là con trưởng. Trong dịp lễ Tiên vương năm nay, ai làm theo ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho người đó. Xin Tiên vương làm chứng giám cho điều này.
Nghe lời vua, các thầy lang đều mong muốn chiếm được ngôi báu nhưng không ai hiểu ý vua thế nào. Họ chỉ biết cạnh tranh để làm những món ăn ngon, đẹp mắt để làm hài lòng vua cha.
Người buồn nhất là Lang Liêu, con thứ mười tám của vua Hùng. Mẹ chàng qua đời sớm, chàng phải tự lập từ khi còn nhỏ, suốt ngày chỉ biết cày cấy. Trong khi các anh em đi săn tìm những vật quý giá để dâng vua, Lang Liêu chẳng có gì để dâng cả. Trong nhà, chàng chỉ có khoai và lúa. Nhưng những thứ đó quá bình thường.
Một hôm, chàng mơ thấy thần đến và dặn dò rằng:
- Trên đời này, không có gì quý hơn hạt gạo. Hạt gạo là viên ngọc của trời. Hãy dùng gạo làm bánh để cúng lễ Tiên vương.
Khi tỉnh dậy, Lang Liêu rất vui mừng. Anh đã lâu nghĩ ra cách làm bánh từ gạo nếp trắng tinh, xay nhuyễn, nhồi nhân bằng đậu xanh và thịt lợn, gói bọc bằng lá dong xanh. Để thay đổi, anh xay nhuyễn cũng loại gạo nếp đó để làm bánh. Khi bánh làm xong, Lang Liêu phân vân không biết đặt tên cho bánh.
Vào ngày lễ Tiên vương, các thầy lang đều mang đến những món ăn ngon nhất, như nem chả phượng… Vua Hùng nhìn qua một lượt rồi dừng lại trước đống bánh của Lang Liêu. Vua rất hài lòng, gọi Lang Liêu đến hỏi về bánh. Lang Liêu kể lại giấc mộng mà thần đã cho. Sau khi nghe, vua suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Bánh hình tròn tượng trưng cho trời, ta sẽ đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho đất, ta sẽ đặt tên là bánh chưng. Lang Liêu đã làm theo ý ta, vì vậy Lang Liêu sẽ nối ngôi ta. Xin Tiên vương làm chứng cho điều này.
Từ đó, dân ta nuôi trồng và chăm sóc nghề nghiệp hơn, có truyền thống ngày Tết làm bánh chưng, bánh giầy. Thiếu những món này là thiếu đi hương vị của ngày Tết.
Bài văn mẫu số 2
Vua Hùng Vương, khi già muốn tìm người nối ngôi. Với hai mươi người con trai, vua không biết ai xứng đáng nhất. Dù giặc bên ngoài đã yên ổn, nhưng nhân dân chỉ khi ấm no thì ngai vàng mới thật sự ấm. Vua gọi các con lại và nói:
- Tổ tiên từ khi dựng nước đã truyền qua sáu đời. Giặc Ân đã nhiều lần xâm lược, nhờ phúc ấm Tiên vương, ta đều đánh đuổi được. Giờ ta già rồi, sắp không sống được lâu nữa, người nối ngôi ta phải thừa nhận được chí vua. Không cần phải là con trưởng. Năm nay, nhân dịp lễ Tiên vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi.
Các lang cố gắng làm vừa ý cha, nhưng ý vua cha thế nào thì không ai hiểu rõ. Họ chỉ biết đua nhau làm cỗ thật hảo hạng để chào mừng lễ Tiên vương.
Duy chỉ có Lang Liêu là không biết phải làm gì. Chàng là con thứ mười tám, mẹ chàng đã qua đời sớm. So với anh em, chàng là người thiệt thòi nhất. Các anh em đi tìm đồ quý trên rừng dưới biển, còn Lang Liêu chỉ biết làm việc chăm chỉ trên cánh đồng. Trong nhà chỉ có khoai và lúa, nhưng những thứ đó lại quá tầm thường.
Một đêm, Lang Liêu mơ thấy thần đến bảo:
- Trên đời này, không gì có giá trị bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới có thể nuôi sống con người và không bao giờ làm cho người ấy ngán. Các thứ khác dù ngon lành nhưng lại hiếm có, không thể sản xuất được. Vì vậy, hãy sử dụng gạo để làm bánh lễ Tiên vương.
Khi tỉnh dậy, Lang Liêu rất vui mừng. Chàng thấy những lời của thần thật đúng. Chàng chọn loại gạo nếp thơm lừng, trắng tinh để làm nguyên liệu. Hạt gạo tròn mẩy được vo kỹ, sau đó chàng làm nhân từ đậu xanh và thịt lợn, bọc bằng lá dong thành hình vuông, nấu một ngày một đêm cho nhừ. Để đổi vị, chàng cũng dùng gạo nếp ấy, xay nhuyễn, nặn thành hình tròn.
Vào ngày lễ Tiên vương, mọi người mang đến các món ăn sơn hào hải vị, nem, chả, phượng... Vua Hùng xem qua một lượt rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu. Vua rất hài lòng và hỏi chàng về cách làm. Lang Liêu kể lại giấc mộng gặp thần cho vua nghe. Vua suy nghĩ rất lâu và quyết định dâng thứ bánh của Lang Liêu lên thờ Tiên vương.
Sau khi đã thờ, vua triệu họp mọi người lại và nói:
- Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, được gọi là bánh giầy. Bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, với thịt mỡ, đậu xanh và lá dong tượng trưng cho sinh vật và thảo mộc, được gọi là bánh chưng. Vỏ lá bên ngoài tượng trưng cho sự đoàn kết, sự bao bọc. Lang Liêu đã dâng lễ một cách rất vừa ý với vua, vì vậy sẽ là người kế vị vua.
Từ đó, đất nước ta phát triển nghề trồng trọt, chăn nuôi và duy trì truyền thống làm bánh chưng, bánh giầy vào ngày Tết. Thiếu hai món này, Tết sẽ không còn ngon lành như xưa.
Đây là bài văn mẫu số 3
Vua Hùng Vương thứ sáu, khi đã về già, muốn truyền ngôi cho một trong số các con. Vua có đến mười hai người con trai, nhưng ngôi báu chỉ có thể truyền lại cho một người duy nhất. Vua cần chọn ra người thật xứng đáng để kế vị. Người nối ngôi vua phải là người có tài, nối được chí vua, không nhất thiết phải là con trưởng.
Nhân dịp đầu xuân, vua triệu các hoàng tử về và thông báo:
- Ai trong các con tìm được thức ăn ngon lành, có ý nghĩa để bày cỗ dâng lên Trời Đất, tổ tiên, ta sẽ truyền ngôi cho người đó.
Các hoàng tử tranh thủ tìm kiếm các loại thực phẩm quý giá, mong muốn được chọn làm người kế vị. Nhưng chỉ có Lang Liêu, con trai thứ mười tám của vua, lại rất băn khoăn. Dù là người chăm chỉ và hiếu thảo, nhưng vì mẹ chàng mất sớm, chàng chưa học được nghề nào để tham gia cuộc thi.
Một đêm, Lang Liêu có giấc mơ thấy thần xuất hiện và dặn dò:
- Con ơi, trên đời này không có gì quý bằng hạt gạo. Gạo là thực phẩm cơ bản nuôi sống con người, ăn mãi không chán. Vậy con hãy dùng gạo nếp để làm ra bánh hình tròn và hình vuông, bọc ngoài bằng lá xanh, bên trong là nhân đậu xanh và thịt lợn.
Khi tỉnh dậy, Lang Liêu vui sướng. Chàng chọn gạo nếp thơm ngon, trắng tinh, hạt nào cũng tròn mẩy, vo sạch rồi làm nhân với đậu xanh và thịt lợn, gói trong lá dong thành hình vuông, nấu đến khi nhừ. Để thay đổi, chàng dùng gạo nếp đó, nghiền nhuyễn và làm thành bánh tròn.
Đến ngày lễ Tiên Vương, các hoàng tử mang đến nhiều món ăn ngon lành. Vua Hùng xem qua rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu, rất hài lòng, liền gọi chàng lên để hỏi. Lang Liêu kể lại giấc mơ gặp thần và giải thích về nguyên liệu, cách làm và ý nghĩa của từng loại bánh. Sau đó, vua chọn hai loại bánh của Lang Liêu để dâng lễ cho Trời Đất và Tiên vương.
Sau khi lễ kết thúc, vua cho đem bánh xuống thưởng thức cùng quần thần. Ai cũng khen ngon.
Nhà vua phát biểu:
- Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Còn bánh hình vuông là tượng Đất, với thịt mỡ, đậu xanh và lá dong là những tượng cầm thú, cây cỏ muôn loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài thơm ngon, ý chỉ sự đoàn kết. Lang Liêu dâng lễ vật rất phù hợp với ý của ta. Vì vậy, ta sẽ truyền ngôi cho Lang Liêu.
Kể từ đó, nước ta chuyên nghiệp hơn trong nông nghiệp. Mỗi năm, vào dịp Tết, mọi người đều làm bánh chưng, bánh giầy để dâng cúng Trời Đất.
Bài văn mẫu số 4
Ngày xưa, khi Hùng Vương thứ sáu về già, muốn tìm người nối ngôi. Tuy vua có đến hai mươi người con trai nhưng không biết chọn ai là xứng đáng. Giặc xâm lược đã bị đánh bại, nhưng để giữ vững ngai vàng, dân ta cần ấm no. Vì thế, vua triệu tập các hoàng tử đến và truyền rằng:
- Ai trong số các con tìm được lễ vật dâng Trời Đất, tổ tiên có ý nghĩa nhất, ta sẽ truyền ngôi cho.
Nghe lời vua, các hoàng tử tranh thủ tìm kiếm các vật quý để dâng vua cha, mong được nhận ngôi vị báu của đất nước.
Trong khi đó, Lang Liêu, con trai thứ mười tám của Vua Hùng, lại cảm thấy băn khoăn và lo lắng. Chàng vốn hiền lành và hiếu thảo nhưng vì mẹ mất sớm, chàng thiếu người chỉ bảo, chưa biết làm món quà gì để tham gia cuộc thi.
Một đêm, Lang Liêu mơ thấy thần đến và bảo chàng rằng:
- Trong cuộc sống này, không có gì quý hơn hạt gạo. Gạo là thực phẩm nuôi sống con người, ăn mãi không ngán. Các loại thực phẩm khác dù ngon nhưng lại hiếm hoi và không thể sản xuất ra dễ dàng. Con hãy sử dụng gạo nếp để làm bánh hình tròn và hình vuông, tượng trưng cho Trời và Đất; lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong lòng bánh, để tượng trưng cho sự sinh sôi, phát triển của Cha Mẹ.
Sau khi tỉnh dậy, Lang Liêu rất vui mừng với lời dặn của thần. Chàng đã chọn gạo nếp thơm ngon, trắng tinh để làm bánh. Hạt gạo tròn mẩy được vo sạch, sau đó chàng lấy đậu xanh và thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong vườn gói thành hình vuông, nấu trong một ngày một đêm thật nhừ. Để thay đổi vị ngon, chàng cũng lấy gạo nếp đó, xay nhuyễn và làm thành hình tròn.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử đều mang đến đủ các món ăn ngon lành. Vua Hùng xem qua rồi dừng lại trước chồng bánh của Lang Liêu. Vua rất ngạc nhiên và liền gọi Lang Liêu đến để hỏi về cách làm bánh. Chàng liền kể lại giấc mộng gặp thần cho vua nghe. Vua Hùng thưởng thức và cảm thấy bánh ngon và ý nghĩa, sau đó triệu tập mọi người lại và truyền rằng:
- Bánh hình tròn tượng trưng cho Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Còn bánh hình vuông tượng trưng cho Đất, với thịt mỡ, đậu xanh và lá dong tượng trưng cho đa dạng của thế giới tự nhiên, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài ý chỉ đoàn kết và sự gắn bó. Lang Liêu đã dâng lễ vật rất vừa ý với vua, nên sẽ được truyền ngôi vị.
Từ đó, nhân dân chúng ta chăm chỉ trong nghề trồng trọt, chăn nuôi và có tập tục làm bánh chưng, bánh giầy vào dịp Tết.