
Sự xuất hiện của chúng ta trên đời là bị động; nhưng sống thế nào là do ta quyết định, chủ động sống hay tiếp tục bị động? Sống theo chủ nghĩa hiện sinh có phải là giải pháp cho những ai muốn chủ động “nhảy múa” trên cuộc sống đã được trao cho này?
Bài 1: Cơ thể
Bài 2: Khoảnh khắc hiện tại
Người sống theo chủ nghĩa hiện sinh có thể tiếc nuối vì phải chết, nhưng không sợ chết và không coi cái chết là điều gì đặc biệt. Câu nói của Wittgenstein trong phần thứ 2 về thời khắc hiện tại có một ý đơn giản về cái chết: “Cái chết không phải là một sự kiện của cuộc đời, không phải điều chúng ta sẽ có trải nghiệm.”
Việc tôi (và những người tôi thương) phải chết là sự thật tôi phải công nhận: cái chết là điểm chấm dứt tuyệt đối của đời tôi. (Cụm từ “nghĩa tử là nghĩa tận” chỉ có nghĩa đen với người theo chủ nghĩa hiện sinh.) Tuy nhiên, cái chết không nên được quan trọng hóa. Khi tôi còn sống và tận hưởng thời khắc hiện tại, cái chết không ảnh hưởng đến tôi: đời tôi chỉ “quay về phía cái chết” khi tôi nhìn nó từ góc nhìn của tương lai.
Như trong tình yêu, cái chết cũng là nguồn gốc của nhiều huyền thoại con người thường hiểu sai. Những câu chuyện thần tiên này giúp giảm nỗi sợ chết, truyền thêm ý nghĩa vào sự thật khó chịu (chuyện ta phải chết), và giải quyết nghịch lý trong đời sống: nếu coi đời từ góc nhìn hữu hạn, ta sợ hãi; nếu coi từ góc nhìn khát khao, ta tưởng mình bất tử.
Thiên đường và địa ngục là hình ảnh đặt ý nghĩa cho cái chết, bắt nguồn từ trí tưởng tượng của dân tộc có nền văn hóa tinh tế nhưng kiến thức thực nghiệm thấp. Chúng thể hiện nhu cầu về công lý siêu hình - quyền lực siêu nhân đứng ngoài cõi đời này, đảm bảo là đau khổ bất công được bù lại sau cái chết.
Tạm gác tôn giáo sang một bên, có nhiều cách khác để truyền ý nghĩa “con người” vào cái chết mà chủ nghĩa hiện sinh không chấp nhận. Sùng bái người vĩ đại đã mất hay tưởng nhớ “hương hồn” người thân đều mang ý nghĩa nhất định vào cái chết, nhưng người theo chủ nghĩa hiện sinh từ chối điều này. Họ không mong chờ giấc ngủ yên dưới ánh mắt kính cẩn của con cháu sau khi chết, vì sau khi chết, cả cơ thể và linh hồn đều biến mất. Việc cố gắng để được nhớ đến qua các thế hệ sau cũng bị coi là yếu đuối vì lý do tương tự.
Đúng là cá nhân sống tiếp qua việc di truyền gen cho thế hệ sau. Chủ nghĩa hiện sinh không bác bỏ khám phá này của khoa học sinh học. Tuy nhiên, sự thật này không thể là căn cứ cho giả thuyết về linh hồn bất tử. “Tâm hồn” theo chủ nghĩa hiện sinh là một ẩn dụ cho chiều sâu ý thức và sẽ chấm dứt khi cá nhân qua đời. Nó không phải là một thực thể sống sót sau cái chết.
Bài học ở đây có thể tóm gọn: cái chết là điểm kết thúc hoàn toàn của kinh nghiệm chủ quan. Đối mặt với sự thật này là đặc trưng của người sống táo bạo và tỉnh táo theo chủ nghĩa hiện sinh. Đặt niềm tin vào giả thuyết khác là thiếu bản lĩnh, là một sự “nhắm mắt bịt tai” về trí tuệ. Những giả thuyết này như thanh chắn giúp ta đối phó với sự bồn chồn do sự tồn tại hữu hạn gây ra.
Quan điểm rằng cái chết không có ý nghĩa siêu hình hay đạo đức được thể hiện rõ trong tiểu thuyết Người Xa Lạ của Camus. Nhân vật chính, Mersault, gây xôn xao vì không tỏ ra đau buồn sau khi mẹ mất. Khi bị thẩm vấn, anh ta miễn cưỡng thừa nhận là ước mẹ còn sống, nhưng không che giấu rằng họ đã không hiểu lòng nhau từ lâu, nên việc bà mất không khiến anh ta than khóc nhiều.
Cách Mersault đối đầu với cái chết gần kề vào cuối truyện khác hẳn, vừa xúc động vừa giản dị. Anh nhận ra cảm giác sầu muộn vì biết cái chết sắp tới sẽ chấm dứt những niềm vui của cuộc đời. Nhưng anh không sợ hãi hay kinh hoàng. Khác với những tử tù khác, anh không cải đạo Thiên Chúa vào phút chót với hy vọng được tha thứ trong kiếp sau cho hành động liều lĩnh đã gây ra cái chết cho kẻ khác.
Cameron Shingleton