Hà mã là loài động vật đặc biệt, duy nhất lưỡng cư trên cạn và dưới nước. Tại sao chúng chọn lối sống này? Tại sao chúng không thể tránh xa nước lâu dài?

Hà mã cần nước nhiều mỗi ngày, ruột kết ngắn không có manh tràng giúp chúng hấp thụ nước kém hiệu quả. Điều này đòi hỏi chúng phải uống nước nhiều để duy trì cân bằng nước trong cơ thể.
Da hà mã mỏng và dễ tổn thương, đặc biệt nhạy cảm với ánh nắng mặt trời. Chúng cần ngâm mình trong nước để giữ da ẩm và bảo vệ nó khỏi tổn thương.

Khi hà mã lâu ra khỏi nước, da chúng sẽ tiết chất lỏng đỏ giúp bảo vệ da khỏi nắng và tác động từ môi trường.
Hà mã có tỷ lệ trao đổi chất thấp, ăn ít hơn so với nhiều loài động vật khác. Răng lớn của chúng không hữu ích trong việc ăn uống, nhưng chúng dựa vào hệ tiêu hóa cộng sinh để tiêu thụ thực vật.

Răng lớn của hà mã không hỗ trợ quá trình ăn uống, nhưng chúng vẫn có thể tiêu thụ thực vật nhờ hệ tiêu hóa cộng sinh trong dạ dày.
Hiệu quả việc nhai của hà mã không tốt và không khả thi khi tăng cường ăn để lấy thêm năng lượng, vì vi sinh vật cộng sinh cần một khoảng thời gian nhất định để xử lý thức ăn, và ăn quá nhiều sẽ chỉ khiến thức ăn đi qua đường tiêu hóa quá nhanh và giảm hiệu quả tiêu hóa. Do đó, hà mã chỉ đơn giản là ăn ít hơn để tiêu hóa tốt.

Hà mã thuộc nhóm Artiodactyla, nhưng các nghiên cứu sinh học phân tử hiện đại đã phát hiện ra rằng họ hàng gần nhất của nó thực sự là cá voi và cá heo. Vì vậy, một số học giả ủng hộ quan điểm hà mã chính là loài kết hợp giữa Cetaceans và Artiodactyla, chúng được gọi là Cetacea Artiodactyla.

Tổ tiên chung của cá voi và hà mã từ lâu đã tách biệt với các loài động vật móng guốc khác. Tổ tiên chung của chúng là loài bán thủy sinh và xuất hiện cách đây 60 triệu năm. Khoảng 54 triệu năm trước, các loài động vật nguyên thủy thuộc loại cá voi-hà mã chia thành hai nhóm, một nhóm tách ra, mở rộng môi trường sống sang những khu vực nước mặn và trở thành tổ tiên của các loài cá voi và cá heo, nhóm còn lại quyết định duy trì môi trường sống bán thủy sinh nước ngọt và trở thành Anthracotherium và hà mã. Vào cuối kỷ Pliocen 2,6 triệu năm trước, tất cả các loài Anthracotherium đều tuyệt chủng, và chỉ còn lại hà mã là tồn tại cho đến ngày nay.
Hà mã có nhiều đặc điểm để thích nghi với đời sống dưới nước. Trước hết, da của nó rất dày và có thể cách nhiệt, phần dày nhất lên tới 3,5 cm, rất hữu ích để duy trì nhiệt độ cơ thể trong nước. Thứ hai, mũi, mắt và tai của nó đều nằm trên đỉnh đầu, khi ngâm mình trong nước, chỉ cần để đỉnh đầu lên mặt nước là nó có thể nhìn được xung quanh và hô hấp bình thường.

Hơn nữa, tai và lỗ mũi của hà mã có thể khép lại hoàn toàn khi lặn, đồng thời khả năng nín thở của chúng rất mạnh. Hầu hết mọi hoạt động sống của hà mã đều có thể thực hiện dưới nước. Hà mã cái chìm hoàn toàn dưới nước trong quá trình giao phối. Đàn con được sinh ra dưới nước và cũng có thể cho con bú dưới nước. Hà mã cũng có thể ngủ dưới nước và có thể tự do ngoi lên mặt nước để thở mà không cần thức dậy.
Tuy nhiên, so với họ hàng gần của nó là cá voi, khả năng thích nghi với nước của hà mã vẫn còn kém xa. Hà mã thực tế không biết bơi, và chỉ có thể dùng chân để tiếp xúc với đáy sông để di chuyển. Hơn nữa, thức ăn chủ yếu của hà mã là cỏ trên bờ chứ không phải thực vật thủy sinh, nghĩa là khẩu phần ăn của nó không thể tách rời giới hạn đất đai, nên các chuyên gia gọi hà mã là động vật bán thủy sinh.

Hà mã thường đến bờ tìm kiếm thức ăn vào ban đêm để tránh ánh nắng mặt trời và nguy cơ bị săn mồi như sư tử. Tuy nhiên, chúng không dám rời xa mặt nước quá lâu.
Trong mùa khô, hà mã có thể phải đi xa tới 4 km từ bờ sông để tìm thức ăn. Hà mã trên cạn không linh hoạt như dưới nước và dễ mất sức đề kháng do mất nước và kiệt sức.

Ngày nay, hà mã chỉ sống ở Châu Phi, mặc dù trước đây chúng cũng có mặt ở Châu Âu và Châu Á. Tuy nhiên, chúng không bao giờ di cư đến Bắc Mỹ theo con đường tiến hóa.