Sau khi trải qua hàng loạt thuế và các chi phí khác, giá của xe có thể tăng lên nhiều lần khi bán tại Việt Nam.
Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, trong tháng 1/2017, Việt Nam đã nhập khẩu khoảng 1.000 chiếc xe ôtô từ thị trường Ấn Độ với giá trung bình mỗi chiếc là 3.700 USD, tương đương khoảng 84 triệu đồng. Đây là mức giá rẻ nhất trong các quốc gia mà Việt Nam nhập khẩu ôtô.
Năm 2016, Ấn Độ đứng thứ hai về lượng xe nhập khẩu vào Việt Nam với 22.000 chiếc và giá trung bình mỗi chiếc là khoảng 5.400 USD, tương đương 123,5 triệu đồng. Trong tháng 1 vừa qua, giá nhập khẩu giảm gần 32% so với giá trung bình năm 2016.
Hầu hết các xe nhập từ Ấn Độ vào Việt Nam đều là xe hạng nhỏ và một số mẫu xe thương mại giá rẻ khác. Giá bán ra tại thị trường Việt Nam có thể tăng lên gấp đôi hoặc gấp ba so với giá nhập khẩu, do ngoài giá nhập khẩu, còn phải chịu thêm nhiều loại thuế và phí khác.
Trong tháng 1, số lượng xe nhập về chủ yếu là phiên bản tiêu chuẩn, điều này đã gây ảnh hưởng đến tổng giá trị của các mẫu xe mà các hãng nhập từ Ấn Độ, giảm so với trung bình năm 2016 khi có cả phiên bản cao cấp.
Sau khi tính toán giá nhập khẩu, các hãng xe còn phải đóng thêm thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng (VAT), và các chi phí khác như bán hàng, marketing, lợi nhuận... để đưa ra giá bán cuối cùng cho người tiêu dùng.
Mức giá của xe nhập từ Ấn Độ tại cảng được tính dựa trên điều kiện thương mại CIF (Cost, Insurance, Freight), tức là bao gồm giá xuất xưởng tại Ấn Độ (Cost), phí bảo hiểm hàng hoá (Insurance) và cước phí vận chuyển từ Ấn Độ về Việt Nam (Freight). Mức giá xuất xưởng thấp hơn nhiều so với giá bán tại thị trường Ấn Độ vì các hãng xe ở Ấn Độ cũng phải chịu các loại thuế và phí liên quan đến xe hơi và hoạt động kinh doanh như ở Việt Nam.
Tính từ giá CIF, các hãng phải đóng thêm 70% thuế nhập khẩu, thuế TTĐB theo từng phân khúc, ví dụ như i10 dưới 1,5 lít động cơ phải chịu 40% thuế và VAT 10%. Theo công thức tính thuế chồng thuế, nếu giá nhập khẩu là A thì giá sau thuế sẽ là A x (1+70%) x (1+40%) x (1+10%) = 2,6 A. Vì vậy nếu giá nhập khẩu là 84 triệu, sau khi tính thuế, giá xe sẽ là 218 triệu.
Sau khi tăng giá do thuế, các hãng còn phải tính thêm các chi phí phân phối như vận chuyển nội địa, bãi gửi xe, trang bị thêm cho xe, chi phí tài chính, duy trì hệ thống của đơn vị nhập khẩu, marketing, bảo hành, dự trữ rủi ro, thuế thu nhập doanh nghiệp cùng lợi nhuận. Thậm chí từ 1/7, các loại chi phí này còn phải chịu thêm thuế TTĐB theo cách tính mới.
Cuối cùng, tại các đại lý, giá xe lại phải đóng thêm các loại chi phí tương tự như những gì các hãng xe phải chịu trong quá trình phân phối. Tổng cộng các loại phí này có thể làm tăng giá xe lên đến 4-5 lần so với giá nhập khẩu ban đầu. Ví dụ, mẫu Grand i10 bản 1.0 Base có giá 359 triệu, tương đương 4 lần giá nhập khẩu trung bình là 84 triệu.
Do vấn đề về kinh tế, các hãng xe phải đặt giá sao cho hợp lý nhất, dù mức giá này có thể khiến khách hàng so sánh với thị trường nước ngoài.
'Chính sách chung của Việt Nam là áp thuế, phí cao để kiểm soát việc sử dụng ô tô, vì thế dù cố gắng hết sức, chúng tôi cũng không thể giảm giá sâu hơn nếu không có sự thay đổi từ cơ chế', một đại diện của một hãng xe có nhiều mẫu nhập khẩu cho biết.
Thị trường ôtô tại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong hai năm vừa qua, xe nhập khẩu đang từng bước chiếm ưu thế so với xe lắp ráp cả về loại hình và số lượng. Tuy nhiên, xe hơi vẫn được coi là sản phẩm xa xỉ tại Việt Nam, phải chịu nhiều loại thuế và phí để hạn chế tiêu dùng, điều này khiến giá xe cao hơn nhiều so với thu nhập trung bình của người dân, đồng thời cũng đắt gấp 3-4 lần so với giá của xe ở các quốc gia phát triển Âu-Mỹ.
Trong những năm 2017 và 2018, có một số dấu hiệu tích cực như việc thuế nhập khẩu từ ASEAN sắp được giảm xuống 0%, và lộ trình giảm thuế TTĐB... những điều này có thể giúp giảm giá của xe nhập khẩu một cách tương đối. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, thay đổi về mức giá có thể không đáng kể vì có thể sẽ có nhiều chính sách khác cũng ảnh hưởng đến giá cả.