Tổng hợp trên 30 bài văn Cảm nhận về 14 câu thơ đầu bài Kiều tại lầu Ngưng Bích hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
Tầm quan trọng của 14 câu thơ đầu trong bài Kiều tại lầu Ngưng Bích (tinh tế, súc tích)
Cảm nhận về 14 câu thơ đầu trong bài Kiều tại lầu Ngưng Bích - mẫu 1
Nguyễn Du là bậc thầy trong việc miêu tả cảnh vật cũng như tình cảm trong thơ. Ông đã tạo ra những bức tranh tưởng chừng như sống động về vẻ đẹp cổ điển. Tác phẩm của ông không chỉ là sự kết hợp tài năng về tả cảnh mà còn là sự kết hợp tinh tế giữa tình và cảnh.
Đoạn trích về Kiều ở lầu Ngưng Bích là một biểu tượng của sự đau đớn và cảm xúc. Nguyễn Du đã diễn tả tình trạng tâm lý của nhân vật một cách xuất sắc thông qua việc miêu tả cảnh và tâm trạng của họ. Đoạn thơ này thể hiện rõ sự đa dạng của tâm trạng của Kiều, từ cô đơn, buồn bã đến lòng trung thành và nhân từ với Kim Trọng và gia đình.
Kết cấu của đoạn văn về Kiều ở lầu Ngưng Bích được xây dựng hợp lý. Tác giả mô tả cảnh Kiều bị giam cầm tại lầu Ngưng Bích ở phần đầu, tiếp theo là sự nhớ về Kim Trọng và gia đình trong cảnh cô đơn và buồn bã, và cuối cùng là sự mệt mỏi và lo lắng của Kiều về những khó khăn phía trước.
Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được mô tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:
Trước lầu Ngưng Bích, mùa xuân bị khóa chặt
Vẻ hoang sơ của non xa, và vẻ gần gũi của ánh trăng
Bốn phía bát ngát xa trông thấy
Cát vàng trải dài, bụi hồng nhỏ nhưng rực rỡ
Một không gian mênh mông hiện ra trước mắt Kiều, khiến lòng nàng thêm đau xót, cô đơn:
Mây sớm và đèn khuya trải dài, bị bóng màn che phủ
Tâm trạng cô đơn của Kiều được miêu tả qua cảnh vật: nửa tình nửa cảnh như chia sẻ một tấm lòng.
Tâm trạng đầy xúc động của Kiều trong những ngày ở lầu Ngưng Bích được diễn tả sâu sắc: vừa chán ngán, buồn bã cho số phận của mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước cảnh vật. Bức tranh thiên nhiên không chỉ đơn thuần mô tả, mà còn truyền đạt tâm trạng của nhân vật.
Kiều trong tâm trạng cô đơn và buồn bã tìm lại sự ấm áp từ người thân. Nỗi nhớ về người yêu và cha mẹ được miêu tả rất cảm động. Tình cảm đối với Kim Trọng đặc biệt sâu sắc và mãnh liệt.
Hình ảnh của người yêu dưới ánh trăng như chén đồng.
Sương mờ che phủ những rạng đông đợi chờ sự trở về.
Bên trời, góc bể cô đơn bơ vơ,
Tâm trạng buồn phiền không nguôi,
Lời thơ như đọng lại nhịp thấp thỏm của trái tim đang rỉ máu vì tình yêu! Nỗi nhớ của Kiều đầy ắp, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra hình ảnh chàng Kim đang chờ đợi tin tức về mình, đau khổ và tuyệt vọng. Một lúc trước đây, họ đã hứa hẹn với nhau trăm năm, nhưng bây giờ, mọi thứ đã thay đổi, và Kiều cảm thấy lỗi hẹn với chàng. Bức tranh của sự trung thành vẫn chưa phai mờ, và vầng trăng vẫn chứng kiến những lời thề nguyền, nhưng bây giờ, mỗi người đi một lối riêng. Kiều nghĩ về số phận cô đơn của mình và tự hỏi: Khi nào mới có thể xóa sạch những lầm lỗi?
Nhớ người yêu, Kiều càng thêm buồn khi nghĩ đến cha mẹ. Dù đã dũng cảm đấu tranh và hy sinh, cứu cha mẹ khỏi vòng tù, nhưng khi nghĩ về họ, nỗi lo lắng vẫn tràn ngập trong Kiều. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cha mẹ già yếu đang chờ đợi ở nhà. Sử dụng những thành ngữ và biểu cảm như 'tựa cửa hôm mai', 'quạt nồng ấp lạnh', 'gốc tử', Nguyễn Du đã diễn đạt tình cảm của Kiều một cách sâu sắc và chân thành.
Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng cuối cùng, Kiều quay về với cuộc sống hiện tại của mình. Mỗi cảnh vật, mỗi ánh nhìn của Kiều đều gợi lên nỗi buồn trong lòng. Kiều ngày càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn đó được tô điểm bằng những điệp ngữ liên hoàn đầy ấn tượng trong bảy câu thơ tả cảnh ngụ tình:
Buồn nhìn cửa bể chiều dần tối,
Thuyền ai gầm gừ trên bờ xa?
Buồn thấy ngọn nước mới đổ,
Hoa nào trôi theo dòng về đâu?
Buồn nhìn nội cỏ xám xịt,
Chân mây mặt đất xanh mơn mởn.
Buồn thấy gió cuốn mặt biến dạng,
Tiếng sóng rền rĩ quanh ghế ngồi.
Theo quan niệm của Nguyễn Du: Mọi cảnh vật đều mang nỗi buồn... Mỗi cảnh Kiều thấy ở lầu Ngưng Bích đều đọng lại nỗi buồn sâu sắc. Mỗi câu thơ gợi lên một tâm trạng buồn. Buồn vì nhìn xa xăm, nhưng cũng buồn vì hy vọng vào một điều gì đó sẽ đến thay đổi tình hình hiện tại. Kiều ước ao thấy cánh buồm, nhưng chúng chỉ thấp thoáng xa xăm, như một ước mơ mờ nhạt, mỗi lúc xa dần. Kiều nhìn ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, nhìn sóng xoay đẩy cánh hoa phiêu lạc, không biết nơi nào là điểm cuối. Sau cùng, màu xanh của cỏ xám xịt càng làm nỗi buồn trở nên mênh mang hơn trong không gian; và rồi, nỗi buồn đó dần trở thành nỗi kinh hoàng khi tiếng sóng vang vọng quanh ghế ngồi. Đây là hình ảnh thực nhưng cũng mơ hồ, như những con sóng đang dội vào chân, đầy nguy hiểm, như muốn cuốn Kiều xuống vực.
Tám câu thơ tuyệt vời với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ phong phú ở đầu mỗi câu, cùng với việc sử dụng nhiều từ tượng hình, từ thanh (thấp thoáng, xa xăm, man mác, xám xịt) đã rõ ràng diễn tả cảm giác u uất, nặng nề, tuyệt vọng, lo âu về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn trích về Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và tinh tế. Thiên nhiên ở đây thay đổi theo tâm trạng của con người. Mỗi tưởng tượng của Nguyễn Du phản ánh một cảm xúc khác nhau trong nỗi đau đớn của Kiều. Điều này chứng tỏ Nguyễn Du đã hiểu sâu sắc nỗi lòng của nhân vật trong hoàn cảnh bất hạnh, để ca ngợi lòng hiếu thảo của nhân vật, giúp chúng ta hiểu sâu hơn về tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bị số phận ghẻ lạnh.
Cảm nhận về 14 câu thơ đầu bài Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 2
Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh từng khẳng định: 'Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, nước ta còn', và nhà thơ Chế Lan Viên đã thể hiện sự lắng sâu và tinh tế khi nói rằng: 'Nguyễn Du viết Kiều đất nước biến thành văn'. Suốt hàng thế kỷ, Truyện Kiều đã trở thành một phần không thể thiếu trong tinh thần mỗi người dân Việt Nam. Những dòng thơ cuốn hút và lôi cuốn, luôn gợi lại trong tâm hồn chúng ta sự đồng cảm sâu sắc với 'tấm gương oan khổ' Thúy Kiều, mang đến cho chúng ta những trải nghiệm thẩm mỹ đặc biệt trước những từ ngữ như hoa, như gấm:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Tám câu thơ lấy từ đoạn Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là những dòng thơ đầy ảnh hưởng nhất trong đoạn trích, thành công diễn tả 'nỗi lòng đau đớn' của Kiều trong những ngày ban đầu của cuộc đời khổ đau.
Hai từ 'buồn trông' được lặp lại bốn lần trong đoạn trích, vừa làm rõ tâm trạng của Kiều 'trước lầu Ngưng Bích', vừa tạo nên một nhịp điệu đều đều, buồn thương cho dòng thơ. Tại 'khoá xuân', Kiều chỉ có thiên nhiên làm điểm tựa, từ đó nàng nhận ra về số phận của mình. Tâm trí của nàng đầu tiên hướng ra xa, vì xa ấy là nhà của nàng, là nơi có những người thân yêu nhất:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Không gian xa xăm, hoang vu ở cửa biển như làm nổi bật thêm thân phận nhỏ bé, cô đơn của Kiều. Khung cảnh ấy kết hợp với thời gian 'chiều hôm' - thời điểm đầy xúc động, đầy buồn - khiến như lấn sâu vào tâm hồn người con gái ở xứ lạ nỗi buồn xót xa. Giữa bức tranh đó, trái tim cô đơn, tâm hồn hoang vu cần một chút ấm áp, một chút hiện diện của sự sống:
Thuyền nào thấp thoáng cánh buồm xa xa?
'Thuyền' là biểu tượng cho sự sống con người. Nhưng nó hiện hữu mờ mờ, như có như không, được diễn tả qua hai từ 'thấp thoáng', 'xa xa'. Sự hiện diện mờ ảo của cánh buồm không tạo ra cảm giác thân mật, ấm áp mà gợi lên sự cô đơn, lạc lõng của con người. Không thấy sự chia sẻ từ nơi biển xa xăm, Kiều hướng ánh mắt về 'ngọn nước' gần gũi hơn:
Buồn trông ngọn nước mới chảy ra
Hoa trôi man mác không biết đi về đâu?
Giữa dòng nước, cánh hoa trôi man mác như làm nhớ lại số phận mỏng manh, phiêu bạt của con người trong cuộc đời. Câu hỏi nhỏ nhẹ như xoáy vào tâm hồn người đọc. Thân phận của cánh hoa có phải là biểu tượng cho những trăn trở, xót xa của Kiều trong số kiếp mong manh, phiêu bạt? Hai tiếng 'về đâu' cuối câu thơ với âm điệu nhẹ nhàng tạo ra cảm giác xa xôi, không rõ ràng, phù hợp với tâm trạng hiện tại của Kiều. Kiều tìm đến với thiên nhiên để giảm bớt nỗi đau trong lòng nhưng mỗi khi nhìn cảnh vật, tâm trạng lại càng trở nên mơ hồ. Dường như dòng nước gợi lên sự lạnh lẽo, bất định, trôi đi nên Kiều quay về với bờ cỏ xanh, với mặt đất:
Buồn trông cỏ non rau rác
Nhưng cỏ cũng mang nỗi buồn của con người: 'rau rác'. Đâu còn là 'cỏ non' xanh mướt chạm đến chân trời trong những ngày thanh bình khi Kiều còn sống trong những ngày 'Êm đềm trướng rủ màn che'. Cảnh xứ lạ như hiểu được nỗi niềm của Kiều nên nhuốm màu tâm tư của cuộc đời phiêu bạt của con người. Nỗi buồn 'rau rác' ấy lan tỏa khắp không gian:
Chân mây mặt đất một màu xanh mướt
Cái nhìn bao quát từ 'chân mây' xa xăm đến 'mặt đất' gần gũi, tất cả đều 'một màu xanh mướt'. Điều này khác biệt hoàn toàn so với sắc xanh tươi tràn ngập không khí mùa xuân:
Cỏ non xanh lấp lánh đến chân trời cũng không giống với màu xanh tinh khôi của áo của chàng Kim khi gặp gỡ lần đầu:
Tuyết phủ trắng như bông, cỏ thì pha màu áo nhuộm đậm màu nâu của da trời.
Màu xanh của không gian ở lầu Ngưng Bích là màu xanh gợi lên nỗi buồn. Nỗi buồn của con người gói gọn trong cảnh vật, lan tỏa khắp mọi nơi. Không gian trở nên u ám, cô đơn. Sự yên tĩnh của cảnh vật chỉ làm nổi bật hơn tiếng lòng đau đớn của con người. Kiều cảm thấy cần phải có tiếng nói của cuộc sống nhưng thực tế, cô chỉ nghe thấy âm thanh mạnh mẽ của thiên nhiên:
Buồn trông gió cuốn mặt mênh mông.
Ầm ầm tiếng sóng vỗ quanh chỗ ngồi.
Gió thổi, nước trôi... tất cả gợi lên sự chảy trôi, giống như thân phận 'Bên trời góc bể bơ vơ' của Kiều. Tiếng sóng ầm ầm vang vọng như tiếng than của con người trong tình cảnh khốn khó, tuyệt vọng. Tầm nhìn của Kiều từ xa đến gần, từ cao đến thấp, mong mỏi tìm kiếm một sự trả lời. Tiếng sóng 'ầm ầm' 'vỗ quanh chỗ ngồi' không làm cho không gian sôi động hơn mà càng đẩy sâu vào tâm trí nỗi đau khổ và lo lắng về tương lai của Kiều. Xót xa biết bao, đau đớn biết bấy! Chỉ có thiên nhiên bên cạnh, chia sẻ 'tấm lòng'' với Kiều. Đó là thời điểm Kiều cảm thấy nỗi buồn nhất.
Thơ chỉ thật sự nằm vững trên bến cảng lòng người khi nó phản ánh sự khao khát tha thiết, được sáng tác bởi tài năng nghệ thuật chân chính. Đoạn thơ của Nguyễn Du đã làm được điều đó. Nó không chỉ thành công trong việc miêu tả nỗi đau lòng, tâm trạng buồn bã của Kiều mà còn là một ví dụ xuất sắc về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của nhà thơ vĩ đại dân tộc. Âm điệu của những câu thơ này đã, đang và sẽ vang mãi trong tâm trí của người đọc.