Câu 1
Câu 1 (trang 91, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Phân tích các đặc điểm của ngôn ngữ nói được ghi lại trong các trích đoạn sau:
a. Lúc này, ông cụ tiến lại gần hắn, nhẹ nhàng gọi:
- Anh Chí ơi! Sao anh lại làm như vậy?
Chí Phèo nhắm mắt, rên lên:
- Tôi chỉ dám chết với bố con nhà mày thôi. Nhưng nếu tôi chết, có thể mày sẽ trở thành kẻ không có ai, thậm chí bị quy cách.
Cụ bà cười một cách nhẹ nhàng, nhưng vẫn thấy sự vui vẻ, người ta nói cụ bà là người vui vẻ hơn vì cách cụ cười:
- Lời nói của anh mới thú vị! Ai làm gì mà anh lại phải chết? Đời không phải là con đường mịn màng đâu? Mày có phải là say rồi?
Rồi, đổi giọng nói thân mật, cụ hỏi:
- Khi nào thế? Sao mày không vào nhà tôi chơi? Vào trong đấy, uống nước.
(Nam Cao)
b.
- Thế này? Mày đã chuẩn bị số tiền cần để trả tôi chưa?
- Xin lỗi, hãy chờ một chút, khi nào tôi có tiền, tôi sẽ trả. Ông chủ nhếch môi, nói:
- Đủ rồi! Nếu mày không trả, tôi sẽ đưa mày ra tòa án.
Anh Tư Bền cười to, nhưng lại thấy ông chủ thân thiện
- Mấy lần rồi! Mày không thể trốn tránh được.
- Tôi đang dự định...
- Tôi mới nhờ một nhà văn nổi tiếng viết kịch theo phong cách cổ. Mày sẽ là người chính trong vở kịch. Vì không ai xứng đáng hơn mày.
- Diễn vở mới, mày cần học, phải không?
- Đúng, phải học và tập diễn trong nửa tháng.
- Trong nửa tháng! Ôi chao!
(Nguyễn Công Hoan)
Câu 2
Câu 2 (trang 91, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Phân tích các đặc điểm của ngôn ngữ viết được thể hiện trong các trích đoạn sau:
a. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà.
(Hồ Chí Minh)
b. Cải trắng tháng Giêng, non như người con gái mơn mởn đào tơ, hình như cũng đẹp hơn các tháng khác trong năm thì phải: sáng nhưng không sáng lộng lẫy như trăng sáng mùa thu, đẹp nhưng không đẹp một cách úa héo như trăng tháng Một. Cái đẹp của trăng tháng Giêng là cái đẹp của nàng trinh nữ thẹn thùng, vén màn hoa ở lầu cao nhìn xuống để xem ai là tri kỉ, mặc dầu không có ai thấy để đoán biết tâm sự mình, nhưng cử thẹn bâng khuâng, thẹn với chính mình. Ánh trăng lúc ấy không vàng mà trắng như sữa, trong như nước ôn tuyền. Đi vào giữa ánh sáng mơ hồ ấy, mình cảm như thấy mình bay trong không gian vô bờ bến.
(Vũ Bằng)
Câu 3
Câu 3 (trang 92, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Hãy phân tích sự khác nhau về tình huống giao tiếp và cách sử dụng từ ngữ của ngôn ngữ nói trong hai đoạn trích sau. Cách sử dụng từ ngữ xưng hô của các nhân vật trong các đoạn trích cho biết điều gì?
a.
- Chí Phèo đấy hở? Lè bè vừa vừa chứ, tôi không phải là cái kho.
Rồi ném bẹt năm hào xuống đất, cụ bảo hắn:
- Cầm lấy mà cút, đi đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ bảo người ta mãi à? Hẳn trợn mắt, chỉ vào mặt cự
- Tao không đến đây xin năm hào.
Thấy hắn toan làm dữ, cụ dành dịu giọng:
- Thôi, cầm lấy vậy, tôi không còn hơn. Hẳn vênh cái mặt lên, rất là kiêu ngạo:
- Tao đã bảo tao không đòi tiền.
- Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế thì anh cần gì?
Hắn dõng dạc:
- Tao muốn làm người lương thiện.
Bá Kiến cười ha hả:
- Ô tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ. Hắn lắc đầu:
- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không! Chỉ có một cách... biết không!... Chỉ còn một cách là... cái này! Biết không!...
(Nam Cao)
b. - Dạ bẩm, thế ra y văn võ đều có tài cả. Chà chà!
- Ở cũng gần như vậy. Sao thầy lại chặc lưỡi?
- Tôi thấy những người có tài thế mà đi làm giặc thì đáng buồn lắm. Dạ bẩm, giả thủ tôi là đao phủ, phải chém những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy tiêng tiếc.
(Nguyễn Tuân)
Phương pháp giải:
Gợi nhớ kiến thức về ngôn ngữ nói và phân tích cụ thể về tình huống giao tiếp và cách sử dụng ngôn ngữ.
Lời giải chi tiết:
a.
- Tình huống truyện: Chí Phèo cầm dao sang nhà Bá Kiến đòi giết.
- Cách sử dụng từ ngữ của ngôn ngữ nói trong đoạn trích: Ngôn ngữ giao tiếp giữa Chí Phèo và Bá Kiến là ngôn ngữ hàng ngày được sử dụng trong giao tiếp của những người dân quê trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng 8, nó không có được lựa chọn hay gọt giũa.
- Cách sử dụng từ ngữ xưng hô của các nhân vật trong các đoạn trích cho biết tác giả là người am hiểu về ngôn ngữ của người nông dân Việt Nam.
b.
- Tình huống truyện: Hai nhân vật đang giao tiếp với nhau về nhân vật Huấn Cao.
- Cách sử dụng từ ngữ của ngôn ngữ nói trong đoạn trích: Thầy thơ "Dạ, bẩm" với viên cai ngục → Ngôn ngữ đậm chất cổ xưa.
- Cách sử dụng từ ngữ xưng hô của các nhân vật trong các đoạn trích cho biết tác giả đã sử dụng ngôn ngữ góc cạnh, giàu tính tạo tình để dựng nên những hành động, lời nói, khung cảnh mang đậm nét cổ xưa.
Câu 4
Câu 4 (trang 93, SGK Ngữ Văn 11, tập một):
Những câu sau đây được trích từ bài viết về tác phẩm Chí Phèo của một học sinh. Hãy xác định và sửa lỗi trong các câu văn này.
a. Thì Chí Phèo là nhân vật mà tác giả Nam Cao muốn gửi đến cho độc giả nhiều thông điệp về bức tranh xã hội coi như là tiêu cực thời bấy giờ.
b. Trời ơi, một người đàn bà có ngoại hình xấu xí như thị Nở mà Chí Phèo cũng yêu điên cuồng đến như vậy thì cũng hơi bị ngạc nhiên đấy ạ!
c. Chí Phèo là một tác phẩm rất chất đã làm cho độc giả thích cực kỳ luôn!
d. Thị Nở tuy bề ngoài nhìn xấu xí như vậy nhưng bên trong vẫn toát lên phẩm chất của một người phụ nữ giàu tình yêu thương cực kì.
Phương pháp giải:
Gợi nhớ kiến thức về ngôn ngữ viết, nói và tìm ra lỗi sai và sửa.
Lời giải chi tiết:
a.
- Lỗi: Sử dụng ngôn ngữ nói trong văn viết.
- Sửa: Chí Phèo là nhân vật mà tác giả Nam Cao muốn gửi đến cho độc giả thông điệp về bức tranh xã hội đầy rẫy những tiêu cực thời bấy giờ.
b.
- Lỗi: Sử dụng ngôn ngữ nói không phù hợp.
- Sửa: Trời ơi, một người đàn bà có ngoại hình xấu xí như thị Nở mà Chí Phèo cũng yêu điên cuồng đến như vậy.
c.
- Lỗi: Sử dụng ngôn ngữ nói trong văn viết.
- Sửa: Chí Phèo là một tác phẩm rất hay đã làm độc giả yêu thích.
d.
- Lỗi: Sử dụng ngôn ngữ nói trong văn viết.
- Sửa: Thị Nở tuy bề ngoài nhìn xấu xí nhưng bên trong vẫn toát lên phẩm chất của một người phụ nữ giàu tình yêu thương.