Dàn ý chi tiết
1. Đặt vấn đề
- Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống xuất hiện từ lâu đời và mang bản sắc dân tộc đậm đà nhất của dân tộc Việt Nam.
-Việc vận dụng tục ngữ, ca dao trong lời thoại của nhân vật chèo có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển của loại hình nghệ thuật sân khấu chèo.
2. Giải quyết vấn đề
- Định hướng, phương pháp nghiên cứu:
+ Nghiên cứu dựa trên định hướng từ những thành tựu riêng của chèo về ca dao, tục ngữ được sử dụng trong lời thoại của các nhân vật chèo.
+ Phương pháp nghiên cứu là phương pháp phân tích – tổng hợp qua các kịch bản mà rút ra nhận định; phương pháp thống kê để khảo sát, liệt kê những câu ca dao, tục ngữ được sử dụng trong chèo, …
- Triển khai luận điểm chính:
+ Chèo đã sử dụng một cách tài tình tục ngữ, thành ngữ vốn là những kinh nghiệm được đúc kết từ trong lao động sản xuất, trong đời sống xã hội, … để đưa trực tiếp vào lời thoại của nhân vật. Chèo truyền thống cũng đã cải biến, thêm lời và đổi ý khi đưa những câu tục ngữ trong dân gian vào lời thoại nhân vật.
+ Chèo thường đưa một số câu tục ngữ có khía cạnh đạo đức hay một số tục ngữ mang tính khẳng định triết lý, tư tưởng nào đó, … Không chỉ sử dụng các câu tục ngữ thuần Việt, các tác giả chèo truyền thống còn đưa các câu tục ngữ Hán Việt vào lời thoại của nhân vật.
- Ngoài vận dụng tục ngữ thì chèo truyền thống cũng đưa những câu ca dao vào lời thoại nhân vật, có thể dùng nguyên văn hoặc sửa đổi một số từ của câu ca dao khi đưa vào lời thoại.
3. Kết luận
-Khẳng định lại giá trị to lớn của văn học dân gian Việt Nam. Cần có thêm những hướng nghiên cứu mới góp phần làm rõ nét hơn vẻ đẹp của văn học dân tộc.
Bài ngắn Mẫu 1
Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian có tính chất tổng hợp, sản phẩm của sinh hoạt xã hội nông nghiệp cổ truyền vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Trong quá trình ra đời, hình thành và phát triển, chèo đã không ngừng kế thừa và biến đổi, tích hợp vào nó nhiều chất liệu và yếu tố văn hóa mới để cho chèo ngày càng phong phú và hoàn thiện hơn.
Đầu thế kỉ XX đã rơi vào tình trạng bế tắc và có nguy cơ mai một. Nhiều làng quê nghèo đói đến mức chỉ có thể làm cúng bái tế Thành hoàng làng mà thôi, còn về phần lễ hội thì hầu như không mở được. Mặt khác, lúc này văn hóa Pháp cũng du nhập vào Việt Nam theo những người Pháp, cùng với chính sách đồng hóa dưới chiêu bài “khai hóa văn minh” của thực dân Pháp khiến cho môi trường văn hóa ở các đô thị biến đổi. Trong điều kiện mới của sự tiếp biến văn hóa mà trong đó có mặt tiêu cực nhiều hơn mặt tích cực, chèo muốn tồn tại ở các đô thị nhất là ở Hà Nội - nơi có đông khán giả xem diễn trò thì phải chấp nhận một cuộc cách tân.
Kịch bản chèo tân thời, nhất là những kịch bản tiêu biểu của Nguyễn Đình Nghị là những cách tân so với những kịch bản chèo cổ truyền thống, chịu chi phối bởi nhu cầu mới của khán giả đô thị và chịu ảnh hưởng khá lớn về mặt kịch nghệ của sân khấu Pháp. Điều này được thể hiện trước hết ở những yếu tố liên quan tới yêu cầu đổi mới kịch bản chèo và quan trọng hơn cả là những đổi mới ngay trong những thành tố tạo lên kịch bản chèo.
Nếu như trước đây trong chèo chèo chỉ giới hạn ở một chơi xổ số tài dân gian, lịch sử thì trong giai đoạn chèo tân thời cụ thể là trong 60 kịch bản chèo của Nguyễn Đình Nghị thì nội dung đề tài được ông sử dụng một cách đa dạng hơn từ các đề tài dã sử, lịch sử dân gian cho đến những đề tài phản ánh hiện thực, phản ánh cuộc sống đương đại. Bên cạnh, việc đa dạng hóa đề tài là sự thay đổi về nhân vật trung tâm của chèo tân thời lại có sự đa dạng hơn về các loại người, các loại thành phần xã hội với các thân phận khác nhau, và họ đã biết đấu tranh để giành lấy số phận của mình.
Bản ngắn Mẫu 2
Chèo là nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống đã tồn tại từ lâu đời và là biểu tượng sâu sắc của văn hóa dân tộc Việt Nam. Sử dụng tục ngữ, ca dao trong lời thoại của nhân vật chèo có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành và phát triển của loại hình nghệ thuật này.
Chèo đã thông minh sử dụng tục ngữ, thành ngữ, chúng là kết quả của sự trải nghiệm trong cuộc sống, công việc, và giao tiếp xã hội… để truyền đạt trực tiếp thông điệp trong lời thoại của nhân vật. Ví dụ như trong vở chèo Kim Nham, câu tục ngữ “lòng chim dạ cá” được sử dụng trong lời của nhân vật Xúy Vân, thể hiện lòng dạ thay đổi của mình, đã lạc vào cuộc sống xa hoa:
Xúy Vân:
“Tôi Xúy Vân quỳ xuống thềm hoa
Nguyện thiên địa quỷ thần soi xét
Tôi có ở ra lòng chim dạ cá
Say giăng hoa không sợ thế gian cười
Khi thác thời thi thể trôi nổi
Hình hài mặc cá sông vùi lấp”
(Kim Nham)
Ngoài việc sử dụng nguyên bản các câu tục ngữ dân gian, chèo truyền thống cũng đã biến đổi, bổ sung và điều chỉnh khi đưa những câu tục ngữ này vào lời thoại của nhân vật. Có những câu tục ngữ được chèo thừa nhận một cách đầy sáng tạo, nhưng vẫn có sự thay đổi nhẹ nhàng. Ví dụ như đoạn lính hầu mắng Lưu Bình: “Anh này chỉ biết nói dối. Quần trứng sáo, áo nước dưa khăn gói gió đưa bạn của tôi không xứng đáng mà dám gọi là bạn tôi à!” (Lưu Bình – Dương Lễ)
Chèo thường đưa ra một số câu tục ngữ với khía cạnh đạo đức hoặc thể hiện triết lý, tư tưởng cụ thể… Không chỉ sử dụng các câu tục ngữ thuần Việt, các tác giả chèo truyền thống còn đưa vào lời thoại của nhân vật các câu tục ngữ Hán Việt.
Ngoài việc sử dụng tục ngữ, chèo truyền thống còn đưa vào lời thoại của nhân vật các câu ca dao, có thể sử dụng nguyên văn hoặc thay đổi một số từ của câu ca dao khi chèo.
Bản ngắn Mẫu 3
Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống đã có từ thời xa xưa và là biểu tượng sâu sắc của văn hóa dân tộc Việt Nam. Việc sử dụng tục ngữ, ca dao trong lời thoại của nhân vật chèo có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển của loại hình nghệ thuật này.
Qua việc phân tích một số kịch bản chèo truyền thống trong tập Tuyển tập Chèo cổ của GS. Hà Văn Cầu, chúng tôi nhận thấy không thể sử dụng góc độ văn học để nghiên cứu các câu ca dao, tục ngữ trong chèo. Qua thống kê và phân tích, chúng tôi nhận thấy số lượng câu tục ngữ được điều chỉnh được sử dụng nhiều hơn số lượng câu tục ngữ nguyên thể và có những câu tục ngữ được sử dụng trong nhiều tác phẩm khác nhau, trong lời thoại của nhiều nhân vật khác nhau để mang lại mục đích khác nhau. Điều này liên quan đến nội dung của từng kịch bản và theo từng phong cách riêng của tác giả, do đó cách sử dụng những câu tục ngữ truyền thống rất đa dạng.
Khi nhắc đến nhân vật chèo, giáo sư Hà Văn Cầu cho rằng “mỗi nhân vật mang một khát vọng hoặc một niềm tin mãnh liệt và luôn tích cực thể hiện khát vọng và niềm tin ấy của mình. Dù có gặp khó khăn đến đâu, họ vẫn không thay đổi mục tiêu của mình” [1, tr 167]. Các nhân vật khi ra sân khấu lập tức giới thiệu cho khán giả tính cách của họ. Sự ổn định trong tính cách là điều chung của các loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian, có sự phân biệt rõ ràng giữa tốt và xấu. Ở chèo, nhân vật nữ được phân thành 3 nhóm: nữ chính, nữ phụ và nữ phản diện. Nữ chính thường trải qua những bi kịch và bất công trong xã hội phong kiến, nhưng vẫn giữ được phẩm chất cao đẹp và sẵn lòng hi sinh vì gia đình. Câu chuyện kết thúc với hạnh phúc, là minh chứng cho sự đẹp đẽ của phẩm chất người phụ nữ và chân lí rằng cái thiện sẽ thắng cái ác. Ngược lại với đạo đức của nhân vật chính, nhân vật nữ phản diện đối mặt mạnh mẽ với những ràng buộc của xã hội, phá vỡ quy tắc và thách thức số phận. Nhân vật nữ phụ là sự kết hợp của hai loại nhân vật trên: đôi khi phải chịu đựng khổ cực nhưng cuối cùng vẫn tìm cách phá vỡ giới hạn và tự do thoát ra khỏi ràng buộc.
Kịch bản chèo tân thời, đặc biệt là những tác phẩm đại diện của Nguyễn Đình Nghị, mang tính cách tân so với chèo truyền thống, phản ánh nhu cầu mới của khán giả đô thị và chịu ảnh hưởng sâu rộng từ nghệ thuật sân khấu Pháp. Điều này thể hiện rõ nhất qua việc cải biên kịch bản chèo và sự đổi mới trong các yếu tố tạo ra kịch bản chèo.
Tài liệu tham khảo Mẫu 1
Chèo là một nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống đã có từ lâu đời và là biểu tượng sâu sắc của văn hóa dân tộc Việt Nam. Chèo là một hình thức biểu diễn dân gian kết hợp, phản ánh sinh hoạt xã hội nông nghiệp cổ truyền ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Trong quá trình hình thành và phát triển, chèo đã liên tục thừa kế và đổi mới, tích hợp nhiều yếu tố văn hóa mới để ngày càng phong phú và hoàn thiện hơn.
Trong bối cảnh lịch sử, đặc biệt là về điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam thời kỳ thực dân Pháp, nghệ thuật chèo đầu thế kỷ XX đã đối mặt với nguy cơ suy tàn và mai một. Nhiều làng quê khốn khó đến mức chỉ đủ điều kiện làm lễ cúng thờ Thành hoàng làng, còn lễ hội thì gần như không tổ chức được. Tình hình này dẫn đến việc các buổi diễn chèo ngày càng ít được mời. Hoàn cảnh lịch sử đóng góp vào việc một số nghệ sĩ chèo dân gian dấn thân vào thành thị, nhưng không nhận được sự chào đón từ phía khán giả đô thị do họ không ưa chuộng phong cách diễn xuất và hát của chèo sân đình. Đồng thời, văn hóa Pháp cũng được đưa vào Việt Nam thông qua người Pháp và chính sách đồng hóa văn hóa dưới thời thực dân Pháp, làm thay đổi môi trường văn hóa ở các thành thị. Trong môi trường văn hóa mới này, với nhiều yếu tố tiêu cực hơn là tích cực, chèo phải thích ứng để tồn tại ở các thành thị, đặc biệt là ở Hà Nội - nơi có số lượng khán giả đông đảo nhất, bằng cách tiếp tục đổi mới.
Kịch bản chèo tân thời, đặc biệt là những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Đình Nghị, đại diện cho sự đổi mới so với chèo cổ truyền, chịu ảnh hưởng lớn từ nhu cầu mới của khán giả thành thị và từ nền kịch nghệ của sân khấu Pháp. Điều này được thấy rõ đầu tiên trong việc đổi mới kịch bản chèo và quan trọng hơn là các thay đổi trong yếu tố tạo nên kịch bản chèo.
Trước đây, chèo hạn chế ở một số chủ đề như dân gian, lịch sử, nhưng trong giai đoạn chèo tân thời, đặc biệt là trong 60 kịch bản của Nguyễn Đình Nghị, ông sử dụng đa dạng chủ đề từ dân gian, lịch sử đến phản ánh thực tế, cuộc sống hiện đại. Đồng thời, việc đa dạng hóa nhân vật chính trong chèo tân thời cũng đa dạng hơn về đặc điểm, về tầng lớp xã hội với các vai trò khác nhau, họ đã đấu tranh để thay đổi số phận của mình. Chèo tân thời còn tăng cường xung đột trong mối quan hệ của các nhân vật, đồng thời sử dụng các giai điệu, 'chèo hóa' các giai điệu dân ca, các yếu tố mỹ thuật, múa... dựa trên nền tảng miêu tả ý nghĩa, tinh thần để mang lại hiệu quả rõ rệt. Chèo tân thời - Nguyễn Đình Nghị đã mở ra một bước phát triển mới trong lịch sử chèo, khiến cho sân khấu chèo chuyển từ dân gian sang chuyên nghiệp. Thành công của chèo tân thời đã ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các xu hướng sân khấu chèo Việt Nam. Lịch sử ngày nay đã chứng minh rằng: 'Nguyễn Đình Nghị là cây cầu nối giữa chèo cổ truyền và chèo hiện đại'.
Mẫu 2: Chèo - Tượng đài văn hóa của người dân Việt
Chèo đã từ lâu trở thành biểu tượng của nghệ thuật dân gian, phản ánh cuộc sống và tinh thần của nhân dân Việt Nam trong quá khứ. Khác biệt với Tuồng, một hình thức nghệ thuật thường tập trung vào những câu chuyện của quý tộc nam giới, Chèo lại tập trung vào cuộc sống của phụ nữ thường dân, những người phải đối mặt với nhiều khó khăn trong xã hội. Các vở Chèo kinh điển thường miêu tả những câu chuyện về sự bất công và vất vả của phụ nữ dưới thời kỳ phong kiến, như vở 'Quan Âm Thị Kính', 'Trương Viên', 'Kim Nham'...
Theo giáo sư Trần Bàng, Chèo thường ca ngợi tình bạn, tình yêu chung thủy và lòng hiếu thảo của con người. Trong các vở Chèo, nhân vật nữ thường được chia thành ba nhóm: nữ chính, nữ lệch và nữ pha. Nữ chính thường là những người phụ nữ chịu nhiều khổ đau nhưng vẫn giữ được phẩm chất cao đẹp. Ngược lại, nữ lệch thường là những người phụ nữ mạnh mẽ, phản đối những truyền thống và quy định của xã hội. Trong khi đó, nữ pha là sự kết hợp giữa hai loại nhân vật trên, thể hiện sự phức tạp của con người.
Không phải tất cả các nhân vật đều tuân theo quy luật định hình về tính cách, mà Chèo thường xây dựng những nhân vật có sự phức tạp và chiều sâu. Ví dụ, nhân vật Xúy Vân trong vở Kim Nham đã trải qua sự biến đổi trong tâm lý và tâm trạng, từ một cô gái ngoan ngoãn đến một người phụ nữ mạnh mẽ và đầy tình yêu.
Chèo Kim Nham không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật mà còn là một bài học về tự do và tình yêu. Sự lựa chọn của Xúy Vân cho thấy rằng, khi người phụ nữ muốn tự do và lựa chọn tình yêu, họ cũng phải đối mặt với những hậu quả đắng cay của số phận. Câu chuyện của Xúy Vân vẫn mang ý nghĩa sâu sắc và cảm động đối với phụ nữ hiện đại.
Tài liệu tham khảo: Mẫu số 3
Chèo là một hình thức nghệ thuật sân khấu dân gian truyền thống có sự hiện diện lâu đời và mang đậm bản sắc dân tộc của Việt Nam. Đây là một loại hình kịch hát dân gian tổng hợp, phản ánh cuộc sống xã hội nông nghiệp cổ truyền ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Việc sử dụng tục ngữ, ca dao trong lời thoại của các nhân vật chèo đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật sân khấu chèo.
Thông qua việc nghiên cứu một số kịch bản chèo truyền thống trong tuyển tập Chèo cổ của GS. Hà Văn Cầu, chúng tôi nhận thấy không thể sử dụng góc độ văn học để phân tích các câu ca dao, tục ngữ trong chèo. Dựa trên thống kê và khảo sát, chúng tôi nhận thấy số lượng câu tục ngữ được sửa đổi và sử dụng nhiều hơn so với số câu tục ngữ nguyên thể, và các câu tục ngữ này thường được sử dụng trong nhiều tác phẩm khác nhau, trong lời thoại của nhiều nhân vật khác nhau với mục đích sử dụng khác nhau. Điều này phản ánh nội dung từng kịch bản và phong cách riêng của tác giả, dẫn đến sự đa dạng trong cách sử dụng các câu tục ngữ truyền thống.
Chèo đã thông minh sử dụng các tục ngữ, thành ngữ là những kinh nghiệm được rút ra từ cuộc sống hàng ngày, từ lao động sản xuất, và đưa chúng trực tiếp vào lời thoại của các nhân vật. Ví dụ như trong vở chèo Kim Nham, câu tục ngữ “lòng chim dạ cá” được nhân vật Xúy Vân sử dụng để diễn tả sự thay đổi trong tâm trạng của mình, sự say sưa trong tình yêu:
Xúy Vân:
“Tôi, Xúy Vân, quỳ xuống, thề trước hoa
Nguyện thề với trời đất, với ma quỷ
Tôi đã thay đổi, lòng dạ mình như cá
Say sưa, không sợ cười chê của đời
Khi thời gian cuốn theo xác tàn
Hình hài mặc trang phục như cá dưới dòng sông”
(Kim Nham)
Ngoài việc sử dụng nguyên bản các câu tục ngữ dân gian, chèo truyền thống cũng đã biến đổi, bổ sung và thay đổi ý nghĩa khi đưa các câu tục ngữ này vào lời thoại của các nhân vật. Một số câu tục ngữ được chèo tiếp nhận cả về nghĩa lẫn ý, nhưng vẫn được sửa đổi một chút. Ví dụ như đoạn lính hầu mắng Lưu Bình: “Anh này chỉ biết nói dối. Quần trứng sáo, áo nước dưa, khăn gói gió, đưa bạn tôi không xứng đáng được gọi là bạn quan của tôi!” (Lưu Bình – Dương Lễ)
So với câu tục ngữ gốc “Quần trứng sao, áo hoa tiên” dùng để chỉ những người ăn chơi trong xã hội xưa, khi áp dụng vào lời thoại của nhân vật lính hầu, đã được điều chỉnh để trở thành một câu có vần vè hơn “quần trứng sáo, áo nước dưa, khăn gói gió, đưa …” để ám chỉ rằng Lưu Bình đang gặp khó khăn và ăn mặc như người dân thường nên chỉ còn là bạn của anh lính hầu.
Chèo thường tôn vinh một khía cạnh đạo đức nào đó của các nhân vật, do đó có một số câu tục ngữ phổ biến thường xuất hiện trong các kịch bản. Ngoài ra, chèo truyền thống còn xây dựng các mô hình nhân vật nữ chính như Thị Kính, Thị Phương, Châu Long,… để truyền đạt những giá trị về luân lý, đạo đức cho phụ nữ.
Chèo cũng sử dụng một số câu tục ngữ có tính chất đạo đức hoặc thể hiện một số triết lý, tư tưởng nào đó, … Không chỉ sử dụng các câu tục ngữ thuần Việt, các tác giả chèo truyền thống cũng đưa các câu tục ngữ Hán Việt vào lời thoại của các nhân vật như “ác giả ác báo” (Quan Âm Thị Kính), “Bần tiện bất năng di” (Chu Mãi Thần), … Điều này cũng là một cách để kết hợp giữa yếu tố dân gian và yếu tố bác học trong chèo.
Ngoài việc sử dụng tục ngữ, chèo truyền thống cũng đưa các câu ca dao vào lời thoại của các nhân vật, có thể là nguyên văn hoặc được điều chỉnh một chút. Ví dụ, Châu Long đã mượn nguyên văn ca dao để diễn đạt tâm trạng của mình:
'Vì em phải như cành đong đưa
Nhưng cũng giống như cành em đưa”
Hoặc lời của Thị Mầu trong một đoạn hát gần đây cũng đã được điều chỉnh một vài từ trong câu ca dao:
'Trúc xinh trúc nở ở phía đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh”
Một trong những giá trị đặc biệt của văn học chèo chính là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố dân gian và yếu tố bác học, tạo ra sự độc đáo của Chèo, vừa mang tính bác học vừa sâu sắc tính dân gian. Việc sử dụng ca dao, tục ngữ trong lời thoại của các nhân vật đã góp phần quan trọng làm nên tính dân gian trong chèo, giúp chèo duy trì được nét riêng của mình và kế thừa, phát triển truyền thống dân tộc.