Để giúp học sinh hiểu rõ phương pháp nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ, hôm nay Mytour cung cấp tài liệu Soạn văn 12: Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ.
Với tài liệu soạn văn này, các bạn học sinh lớp 12 có thể chuẩn bị bài một cách nhanh chóng và đầy đủ. Mời bạn tham khảo nội dung chi tiết dưới đây.
Soạn bài Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ - Mẫu 1
I. Hướng dẫn
1. Phân tích đề và lập dàn ý
Đề 1.
a. Phân tích đề
Bài thơ được tạo ra trong bối cảnh đặc biệt: Được sáng tác bởi Bác Hồ khi đang ở chiến khu Việt Bắc, trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954).
b. Lập dàn ý
(1) Mở đầu: Tổng quan về tình hình ra đời của bài thơ.
(2) Phần chính:
- Mô tả về vẻ đẹp của núi rừng dưới ánh trăng đêm (bao gồm hình ảnh ánh trăng, hoa, cây cổ thụ, tiếng suối…)
- Nhân vật trong bài thơ chăm chỉ làm việc cho đất nước, đến lúc đêm tối vẫn chưa ngủ.
- Bài thơ mang đậm dấu ấn hiện đại khi con người được vinh danh giữa thiên nhiên hùng vĩ, nhưng vẫn giữ được nét cổ điển qua cách diễn đạt, việc miêu tả cảnh đẹp và ngôn từ lãng mạn.
(3) Kết thúc: Sự đồng lòng giữa tâm hồn của người nghệ sĩ và lòng dũng cảm của chiến sĩ được thể hiện một cách hài hòa trong bài thơ.
Đề 2.
a. Hiểu đề một cách kỹ lưỡng
Khí thế của cuộc kháng chiến chống Pháp rất mạnh mẽ và hùng hồn, thể hiện qua sự tham gia của lực lượng, những chiến trường nổi tiếng và thời điểm quan trọng trong chiến dịch tổng tiến công…
b. Xây dựng kế hoạch
(1) Bắt đầu: Giới thiệu về đoạn thơ (nguồn gốc, trích dẫn nguyên văn đoạn thơ).
(2) Phần chính:
- Sức mạnh dũng mãnh của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Việt Bắc: 8 câu đầu.
- Sức mạnh chiến thắng trên các trận địa khác: 4 câu còn lại.
- Đặc điểm của việc sử dụng hình ảnh, ngôn từ tinh tế của tác giả trong đoạn thơ.
(3) Kết luận: Đoạn thơ thành công trong việc tôn vinh cảm hứng của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc Việt Nam.
2.
- Loại văn bản: phân tích đoạn thơ, bài thơ.
- Thành phần: tóm tắt về đoạn thơ trong bài thơ, phân tích nội dung và phong cách nghệ thuật của đoạn thơ và bài thơ, đưa ra đánh giá về đoạn thơ và bài thơ.
II. Thực hành
Phân tích đoạn thơ sau trong bài “Tràng Giang” của Huy Cận:
Lớp mây dày đặc trên đỉnh núi,
Chim nhỏ cánh nghiêng: bóng chiều rủ.
Nước quê mênh mông dần dần,
Buổi chiều vắng vẻ nhớ quê nhà.
Một gợi ý mới:
(1) Bắt đầu bài: Giới thiệu về bài thơ Tràng giang và những ý chính của khổ thơ 4.
(2) Phần chính
- Hai dòng đầu tiên tạo nên một cảnh thiên nhiên chiều tà, với vẻ đẹp hùng vĩ, mang đến sự thanh bình:
- Các đám mây trắng trải dài từ một lớp này sang lớp khác, tạo nên hình ảnh những ngọn núi bạc phủ trắng dưới ánh nắng chiều.
- Hình ảnh của 'cánh chim' hiện ra như một tia sáng ấm áp, tuy nhiên không thể xua tan đi nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn của nhà thơ.
- Hai dòng cuối đã thể hiện sâu sắc nỗi nhớ quê hương đầy xúc động, cháy bỏng trong tâm trí của tác giả:
- Hình ảnh “dòng nước uốn quanh” mô tả những con sóng xa xôi, mang đến không chỉ cảm giác nhớ nhung vô tận mà còn thêm sự buồn bã trong tâm hồn nhà thơ.
(3) Đánh giá tổng quan về đoạn thơ trên.
Soạn bài Nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ - Mẫu 2
I. Thực hành
Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận:
Tầng tầng mây cao kề núi bạc,
Chim nhấc cánh nhỏ: bóng chiều buông.
Tim nhớ quê dợn dợn bên dòng nước,
Ngay cả khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Gợi ý:
Bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận được lấy từ tập Lửa Thiêng. Tác phẩm lột tả nỗi nhớ quê, hương xứ trong khung cảnh hoàng hôn. Đặc biệt là trong khổ thơ cuối cùng:
Tầng tầng mây cao kề núi bạc,
Chim nhấc cánh nhỏ, bóng chiều buông,
Tim nhớ quê dợn dợn bên dòng nước,
Ngay cả khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Trước mắt nhà thơ là những dãy núi mây vươn lên, xếp chồng lên nhau tạo thành những tầng màu trắng bạc. Phong cảnh thiên nhiên hiện ra tráng lệ đến khó tin. Bầu trời có lẽ là màu xanh biển sâu, hoặc tím thanh trong khoảnh khắc hoàng hôn khiến cho màu của những đám mây ở phía cuối chân trời mới chói lên như màu bạc ấy. Giữa vẻ đẹp rộng lớn vô hạn, bất ngờ xuất hiện một chú chim nhỏ bé. Con chim đang mang trên mình bóng chiều, bay đi vội vã. Trên nền tối nhạt của bóng chiều tan biến, hiện lên những dãy núi mây cao và một con chim lạc đàn nghiêng cánh nhỏ. Hai hình ảnh này tượng trưng cho những cảnh chiều hôm trong tâm trí của người lữ khách: “Nghìn dặm gió cuốn chim mỏi' (Bà Huyện Thanh Quan), “Chim về rừng sau gió hoạt' (Nguyễn Du). Sự tương phản nghệ thuật giữa con chim nhỏ bé và núi mây bạc hùng vĩ, với vẻ đẹp vô biên của trời đất đã làm cho khung cảnh đất trời và tràng giang trở nên mênh mông hơn, xa xôi hơn, và cũng buồn bã hơn.
Bốn câu cuối mang hơi thở cổ điển rất rõ ràng. Ý nghĩa ấy, sắc màu ấy được thể hiện trong hình ảnh nhà thơ một mình đứng lẻn trong vũ trụ bao la, im lặng cảm nhận sự vô cùng của không gian, thời gian đối với cuộc đời người hữu hạn. Một con chim, một dãy núi mây bạc cũng dẫn dắt tâm hồn chúng ta đi qua mọi nẻo đường, đến với mọi phương hướng trên chân trời: Bờ trời sóng gợn, lòng sông sâu thẳm - Mặt đất mây núi, cánh cửa ải xa xăm (Đỗ Phủ). Ý nghĩa cổ điển ấy lại được thêm vào một tứ thơ Đường:
Tim quê dợn dợn với dòng nước
Ngay cả khói hoàng hôn cũng gợi lên nỗi nhớ nhà.
Hơn mười hai thế kỉ trước, trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu, Thôi Hiệu đã viết:
Quê hương che phủ bóng hoàng hôn,
Trên sông khói sóng lúc buồn lòng ai.
(Dịch bởi Tản Đà)
Nhìn xa, Huy Cận theo dõi dòng sông Tràng Giang trôi, trên cao, nhà thơ phủ nhận: “Không có một chuyến đò ngang/Nhằm gợi chút niềm thân thiết” nhưng tại đây, ông lại nói: “Ngay cả khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Nỗi buồn lẻ loi và nỗi nhớ quê hương tràn ngập tâm hồn người xa xứ trong hoàng hôn, bên bờ sông đang hối hả trôi về nơi xa xăm.
Bài thơ “Tràng Giang” nói chung, đặc biệt khổ thơ cuối đã thể hiện nỗi đau của một “tâm hồn” cô đơn đối diện với vẻ đẹp vô tận của thiên nhiên, trong đó chứa đựng tình người, tình đời và tình yêu quê hương sâu sắc.
II. Bài tập ôn luyện
Đề 1. Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu.
Một gợi ý:
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã nhận xét: “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong nhóm nhà thơ mới”. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là Vội vàng. Bài thơ là lời khuyên hãy sống đầy đủ, sống hết mình, hãy trân trọng từng khoảnh khắc, từng phút giây của cuộc đời, đặc biệt là những năm tháng tuổi trẻ.
Mở màn bài thơ, tác giả thể hiện tình yêu đắm say với cuộc sống trên thế gian:
'Tôi muốn dừng bước nắng
Đừng để màu phai nhạt đi;
Tôi muốn gìn giữ gió
Đừng để hương bay đi'
Ánh nắng của mùa xuân là tia sáng rực rỡ, ấm áp và tươi vui. Còn hương của mùa xuân là nơi quy tụ tinh hoa của đất trời, của muôn loài sum họp. Hai hành động “dừng bước nắng”, “gìn giữ gió” là đối lập với quy luật tự nhiên. Kết hợp với cấu trúc “Tôi muốn... để” kết hợp với động từ mạnh mẽ “dừng”, “gìn giữ” và nhịp thơ nhanh, dồn dập, thể hiện khát khao mãnh liệt, hối hả, muốn nhanh chóng không để những vẻ đẹp tự nhiên qua đi nhanh chóng. Đó là mong muốn làm cho cái đẹp vĩnh cửu, để cái đẹp tỏa sáng mãi vì hương thơm của cuộc đời tươi mới, ngọt ngào nhưng mong manh.
'Ở đây là thời kỳ tốt đẹp của ong bướm;
Đây là thời điểm mùa xuân nội địa phồn thịnh;
Đây là thời khắc lá cây tung bay phất phơ;
Này là giọt sương mai chớp mắt tinh tế;
Và đây là ánh sáng chớp mắt, dẫn lối
Mỗi buổi sáng, niềm Vui vẫn gõ cửa
Tháng giêng, đẹp như một nụ hôn'
Điệp ngữ “này đây” được lặp lại năm lần như một lời mời gọi, kết hợp với thủ pháp liệt kê, vừa diễn tả sự giàu có, phong phú bất tận của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hân hoan, vui sướng của tác giả. Nhà thơ sử dụng biện pháp tu từ nhân hoá, dùng những danh từ thuộc về con người (“thời kỳ tốt đẹp của ong bướm”, “khúc tình si”) để miêu tả thiên nhiên, kết hợp với “ong bướm”, “giọt sương mai” được gọi tên như đôi như lứa khiến cho vườn xuân bỗng đầy mộng mơ, lãng mạn, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc. Tính từ “nội địa phồn thịnh”, “phất phơ” giàu sức gợi tả vẽ nên cảnh thiên nhiên mùa xuân non tơ, tràn đầy sức sống. Bức tranh xuân không chỉ có cảnh vật đẹp tươi mà còn tràn đầy ánh sáng và niềm vui với hình ảnh “ánh sáng chớp mắt” và “niềm vui vẫn gõ cửa”. Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hân hoan vui sướng. Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng, mê mải trao gửi sắc hương, xui khiến lòng người ngất ngây tận hưởng, để thi nhân tạo hóa thành tình nhân: “Tháng Giêng, đẹp như một nụ hôn”. Câu thơ sử dụng nghệ thuật ẩn chuyển đổi cảm giác, hay chính là phép giao thoa mà thơ Mới tiếp thu được từ thơ ca tượng trưng Pháp. Đồng thời, Xuân Diệu cũng gợi về cuộc sống, tuổi trẻ và hạnh phúc.
Những câu thơ tiếp theo thể hiện quan điểm mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian:
'Xuân đang đến, nghĩa là xuân sắp qua,
Xuân vẫn còn non, nghĩa là xuân sẽ già đi,
Nhưng khi xuân cạn kiệt, là lúc tôi cũng mất đi.
Lòng tôi to lớn, nhưng sức chứa của trời vẫn hẹp hòi,
Không đủ để kéo dài thời trẻ của nhân gian;
Nói làm gì về việc xuân vẫn quay về,
Nếu tuổi trẻ không thể quay lại lần thứ hai
Trời đất vẫn còn, nhưng tôi sẽ không còn mãi mãi,
Vì thế, tôi cảm thấy hối tiếc cho cả trời đất'
Nhà thơ đã nhận ra sự chảy trôi của thời gian. Khi mùa xuân tự nhiên đến, cũng là lúc mùa xuân của tuổi trẻ trôi đi. Nếu mùa xuân của đất trời luôn lặp lại, thì mùa xuân của con người chỉ có một lần. Tuổi trẻ không thể quay lại lần thứ hai. Tiếc nuối về sự chảy trôi đó, cũng như sự chia ly, bao phủ lấy cả sự vô tận của thời gian, khoảng trống không cách biệt của không gian. Một loạt hình ảnh thiên nhiên tượng trưng cho sự chia ly: Thời gian đổi thay như màu sắc phân biệt, núi sông lặng lẽ tiễn biệt, cơn gió xuân dạt dào vốn thầm thì trong tiếng khóc. Cảm giác mạnh mẽ của việc tiếc nuối và sự chia tay, vừa buồn bã lại vừa thúc đẩy.
Đoạn thơ kết thúc thể hiện mong muốn tận hưởng và tận hiến của nhà thơ:
'Hãy đi ngay đi! Mùa chưa bắt đầu chiều tà,
Ta ao ước
Ôm trọn sự sống đang rực rỡ;
Ta ao ước nhìn mây trôi và gió lay,
Ta ao ước mê say cùng bướm trong tình yêu,
Ta ao ước chìm đắm trong một nụ hôn nồng
Với non nước, cây cỏ rợn ngợp,
Để ngập tràn mùi hương, ánh sáng tỏa rạng
Cho sự tươi mới rực rỡ của cuộc đời;
- Xuân hồng ơi, ta muốn thưởng thức ngươi'
Câu đầu tiên như lời khích lệ, thể hiện mong muốn sâu sắc được tận hưởng thiên nhiên và cuộc sống, tận hưởng thời gian và cuộc sống. Điệp từ “Ta ao ước” đặt ở đầu câu vang lên đầy mạnh mẽ, kết hợp với loạt động từ tăng dần: “ô m”, “mê say”, “chìm đắm” đã làm nổi bật tư thế tích cực tận hưởng mọi vẻ đẹp của cuộc sống ở độ tươi mới nhất, phong phú nhất của cái “tôi” trìu mến. Tác giả ao ước được ôm trọn sự sống của đất trời vào lòng. Cũng như sống hòa mình với thiên nhiên cùng với mây trôi và gió lay. Hoặc những cảm xúc mãnh liệt trong tình yêu đôi lứa. Câu cuối cùng đưa ra một hình ảnh độc đáo: “Xuân hồng ơi, ta muốn thưởng thức ngươi”. Mùa xuân là cái vô hình không thể nắm bắt, nhưng ở đây nhân vật trìu mến lại muốn “thưởng thức” - ẩn dụ chuyển đổi cảm giác để thể hiện khao khát tận hưởng mãnh liệt của thi nhân.
Trong Vội vàng, Xuân Diệu đã thể hiện những khát khao mãnh liệt được tận hưởng và hiến dâng cho cuộc sống. Đó cũng là cách sống mà thế hệ trẻ ngày nay cần học tập.
Đề 2. Phân tích khổ 1 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
Gợi ý:
Hàn Mặc Tử, một trong những danh nhân văn học Việt Nam, đã để lại dấu ấn bền vững qua tác phẩm 'Đây thôn Vĩ Dạ'. Khám phá khổ thơ đầu tiên, ta được đắm chìm trong vẻ đẹp của thôn Vĩ:
'Sao em không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng bên hàng cây cau mới bừng sáng
Vườn nào xanh tốt đẹp như ngọc bích
Trúc che kín mặt đường như chữ 'điền''
Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi: 'Sao em không về chơi thôn Vĩ?'. Câu hỏi này gợi lên hai ý nghĩa khác nhau. Đó có thể là lời hỏi từ người dân thôn Vĩ gửi đến tác giả. Theo truyền thống kể lại, Hàn Mặc Tử đã lấy cảm hứng sáng tác từ lời thăm hỏi của một cô gái thôn Vĩ khi nhà thơ đang ốm đau. Cô gửi cho ông một tấm bưu thiếp với hình ảnh thôn Vĩ kèm theo lời nhắn nhủ: Sao anh không về thăm lại thôn Vĩ. Hoặc đó có thể là lời của chính tác giả, Hàn Mặc Tử, đang tự hỏi lòng mình. Mặc dù hiểu theo cách nào, chúng ta đều cảm nhận được nỗi nhớ quê hương và mong muốn trở về thôn Vĩ của nhà thơ.
Những câu thơ tiếp theo mô tả vẻ đẹp tự nhiên của thôn Vĩ Dạ. Hình ảnh đầu tiên được vẽ ra: 'Nhìn nắng bên hàng cây cau mới bừng sáng'. Ánh sáng của buổi sáng đã lan tỏa khắp làng quê. Việc sử dụng từ ngữ 'nhìn nắng' - 'nắng mới' thể hiện một không gian đầy sức sống. Loạt từ ngữ ánh sáng của một ngày mới đầy hứng khởi và ấm áp mang lại cho con người một nguồn năng lượng mới. Tiếp theo là câu hỏi tinh tế: 'Vườn nào xanh tốt đẹp như ngọc bích'. 'Nào' là một từ chỉ hư cấu, nhà thơ không biết vườn đó thuộc về ai. Từ 'xanh tốt đẹp' gợi lên màu xanh của sự sống, lung linh trên khắp khu vườn. So sánh 'xanh như ngọc bích' khiến chúng ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu:
“Bầu trời xanh ngọc nở muôn lá,
Mùa thu đã đến - khắp nơi vang lên tiếng huyền”
(Duyên thơ)
Cuối cùng, nhà thơ vẽ nên hình ảnh tuyệt đẹp của con người xứ Huế trong câu thơ: “Lá trúc dày che kín như mặt tiền của ngôi nhà”. Trong không gian tự nhiên ấy, con người chỉ hiện hữu như một chút gợi nhớ. Hình ảnh này gợi cho người đọc hai cách hiểu. Khuôn mặt làm bằng chữ điền của người thôn Vĩ mờ mờ nhòe sau lớp lá trúc. Khuôn mặt chữ điền này mang đậm vẻ hiền lành, ấm áp, liệu đó có phải là gương mặt của cô gái Hàn Mặc Tử đang thầm nhớ? Hoặc có thể đó là khung cửa sổ hình chữ điền mờ nhạt sau tán lá trúc. Bất kể cách hiểu nào, Hàn Mặc Tử đều muốn thể hiện vẻ đẹp của con người xứ Huế và tình cảm dành cho con người và cảnh vật nơi này.
Khổ thơ đầu tiên trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” đã mô tả vẻ đẹp tự nhiên của thôn Vĩ một cách sống động, thể hiện rõ tài nghệ sáng tác của nhà thơ Hàn Mặc Tử.