Khi soạn bài Thực hành đọc: Mộng đắc thái liên trang 30, 31, 32 trong sách Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức, học sinh sẽ dễ dàng trả lời các câu hỏi và viết văn 11.
Sáng tạo với bài văn Mộng đắc thái liên - Kết nối tri thức
Nội dung chính: Bài văn Mộng đắc thái liên tả lại cảnh hái sen, cuộc sống và công việc liên quan đến hái sen, từ việc hái bông hoa sen, tác giả truyền đạt những triết lý về cuộc sống con người.
Câu 1 (trang 30 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 11 Tập 2): Đề tài và cảm xúc của tác giả khi sáng tác.
Trả lời:
- Đề tài: Sen
- Cảm hứng sáng tác: sáng tạo trong thời kỳ làm quan với triều Nguyễn, khi nhà thơ mơ thấy cảnh hái sen ở Hồ Tây khi còn trẻ sống ở Thăng Long. Một số nguồn cho biết 'cô hàng xóm' trong bài thơ này có thể là Hồ Xuân Hương, dựa trên một bài thơ có vẻ như là lưu bút của Hồ Xuân Hương, đó là bài thơ nôm gửi 'Cần Chánh Điện Học Sĩ Nguyễn Hầu'. Bài Mộng Đắc Thái Liên của Thi hào Nguyễn Du (Tập Nam Trung Tạp Ngâm bài thứ 80 đến 84) gồm có năm phần. Ðặc biệt, phần III nói về một cô gái trẻ hàng xóm đi hái sen cùng tác giả. Tác giả còn đang phân vân không biết cô ta có đến không thì đã chợt nghe tiếng cười nói của cô ấy.
Câu 2. (trang 30 sách giáo khoa Ngữ văn 11 Tập 2): Sử dụng hình thức thơ ngũ ngôn và nguồn tư liệu.
Trả lời:
- Hình thức thơ ngũ ngôn
- Nguồn tư liệu sử dụng: Sen, Hồ Tây, cô hàng xóm
Câu 3. (trang 30 sách giáo khoa Ngữ văn 11 Tập 2): Sự chân thành và những yếu tố độc đáo.
Trả lời:
“Mộng đắc thái liên” có thể được coi là một trong những giấc mơ đẹp và hiếm hoi trong thơ của Nguyễn Du. Tuy nó chỉ là một giấc mơ huyền ảo và ngắn ngủi. Trong bài thơ, nhà thơ hẹn hò với một cô gái láng giềng đi hái sen sớm. Trên chiếc thuyền nhỏ giữa sóng nước của Hồ Tây, nhân vật trữ tình hồi hộp chờ đợi cô gái láng giềng. Thể thơ năm chữ với những câu thơ ngắn tựa như giấc mơ, ngắn ngủi và không chắc chắn. Nguyễn Du có vẻ muốn kéo dài thêm câu chữ, thêm giấc mơ. Việc sử dụng nhiều thanh bằng trong bài thơ có thể được coi là một cố gắng níu kéo của nhà thơ. Gần như đạt đến mức hoàn hảo về thanh bằng, một số câu thơ dẫn dắt tâm hồn qua những điệp trùng của âm nhạc không lời. Nhờ đó, giấc mơ trở nên trong sáng và nhẹ nhàng hơn, lan tỏa vẻ đẹp mênh mông.
Câu 4 (trang 30 sách giáo khoa Ngữ văn 11 Tập 2): Tâm hồn nhạy cảm, lãng mạn và tinh tế của nhà thơ.
Trả lời:
Bài thơ mô tả cảnh chung, tổng quan, về việc hái sen ở Hồ Tây: Gọn gàng quần áo như cánh bướm/ Đứng trên thuyền nhỏ hái sen (Chúng ta vội vàng như bướm/ Sắp hái sen ở nhà nhỏ).
Đó là cách mô tả về người đi hái sen, chèo chiếc thuyền nhỏ lướt nhẹ trên mặt hồ, đi qua những bông sen và lá sen. Nhưng người gọn gàng quần áo như cánh bướm ở đây là ai? Có lẽ là những cô gái trẻ, con nhà hiền quanh hồ mà tác giả quan sát thấy. Có cô gái, chắc có cả nam thanh, trong đó có thi sĩ tài năng Tố Như…
Hai câu kế tiếp mô tả nước hồ bao la láng lợi và màu xanh biếc, thể hiện rõ hình ảnh của người hái sen. Một số chi tiết nhỏ về cảnh và người hái sen ở Hồ Tây trong một ngày đẹp, yên bình và lãng mạn. Có cảnh vật và có người trong cảnh, nhưng mô tả về người chỉ tập trung vào một số điểm nhấn, như Quần áo nhẹ nhàng, tức là quần áo lụa mỏng, giống như cánh bướm nheo nhóc và hình ảnh của người hái sen in trên mặt nước hồ trong, duyên dáng.
Bài thơ thứ hai, mô tả cụ thể công việc hái sen, và đồng thời nêu lên mục đích của việc này. Hái hoa sen, cũng như gương sen, cả hoa và gương đều được đem lên thuyền. Đó chỉ là việc bình thường. Có nhiều người dân sống gần Hồ Tây, nhiều gia đình dùng việc hái sen (cả hoa và gương) để kiếm sống. Tuy nhiên, cũng có những người giàu có, họ hái sen chủ yếu để thể hiện đẳng cấp, như một dạng giải trí tinh tế. Với tác giả của bài thơ này, thì Hoa là để tặng cho người mình kính trọng / Gương là để tặng cho người mình yêu quý (Hoa để tặng sở úy/ Gương để tặng sở liên). Hai câu tiếp theo chứa nhiều ý nghĩa sâu xa về tình cảm. Hoa sen trắng hay hoa sen hồng, đều đẹp. Hương thơm của sen nhẹ nhàng, tinh khiết. Đó là loài hoa quý từ xa xưa, còn có tên gọi tuyệt vời là hoa phù dung. Hoa sen được hái về để tặng cho người yêu quý, để trân trọng và dâng lên bàn thờ tổ tiên, điều đó là hết sức bình thường.
Bài thơ thứ ba, cũng mô tả việc hái sen, nhưng ở một khía cạnh khác. Sáng nay, thi sĩ đi hái sen, đã hẹn với một cô gái láng giềng, có lẽ là xinh đẹp và trẻ trung. Mặc dù đã hẹn, nhưng không biết cô gái đẹp đã đến chưa (bất tri lai bất tri)? Dù chưa nhìn thấy cô gái đẹp, nhưng tiếng cười của những người hái sen (cách hoa văn tiếu ngữ), đã làm tâm hồn thi sĩ phấn khích. Hoa sen tươi tốt, bao gồm hàng ngàn bông thơm và lá xanh, dù chưa thấy người hái sen, nhưng tiếng cười vui vẻ của họ nằm trong những bông hoa và lá sen, thật là tuyệt vời. Chỉ cần mô tả tiếng cười của những người hái sen, đã thấy sự đẹp của tự nhiên và con người, sinh động và thanh thoát…
Hai bài thơ còn lại của chuỗi bài về việc hái sen, dành cho triết lý của tác giả. Mọi người đều thích hoa sen/ Nhưng không ai thích cuống sen (Cộng tri liên liên hoa/ Thùy giả liên liên cấn), là điều rất phổ biến trong cuộc sống. Hoa sen được người ta trân trọng, còn cuống sen thì thường bị bỏ đi. Tuy nhiên, điều này không phản ánh sự ít giá trị của cuống sen. Thậm chí, cuống sen vẫn có những sợi tơ bền bỉ / Vẫn giữ được hình dạng của mình mãi mãi. Điều này ngụ ý rằng mỗi cá nhân có giá trị riêng của mình, và không nên bị coi thường, không nên có tư duy “Hạ mục vô nhân”. Có lẽ Nguyễn Du muốn sử dụng ý này để thảo luận về triết lý về cuộc sống, để làm cho mọi người tỉnh táo?
Bài thơ cuối cùng, đưa ra một quan điểm khác, xoay quanh hình ảnh của sen và công việc hái sen. “Lá sen xanh xanh / Hoa sen xinh xinh, điều này ai cũng biết rồi. Nhưng Hái sen không nên nhìn trông / Năm sau hoa không nở” (Thái chi vật thương ngẫu/ Minh niên bất phục sinh), đây là một lời nhắc nhở sâu sắc của tác giả. Nhìn thấy sen là biểu tượng của sự sống, biểu tượng của tương lai, chúng ta phải biết trân trọng và bảo vệ. Đây là sự biểu hiện của sự thông thái trong vũ trụ, đồng thời cũng là minh chứng cho lòng nhân ái của người trí thức và tinh thần nhân văn của nhà thơ….