Bài đọc về Những con sếu bằng giấy - Tiếng Việt lớp 5
Lời giải bài tập Tập đọc: Những con sếu bằng giấy trang 37 Tiếng Việt lớp 5 cung cấp giải đáp chi tiết và dễ hiểu cho các câu hỏi trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5.
Những con sếu bằng giấy
Ngày 16-7-1945, Mỹ đã chế tạo thành công bom nguyên tử. Chỉ hơn nửa tháng sau, chính phủ Mỹ quyết định thả cả hai quả bom này xuống Nhật Bản.
Hai quả bom đã cướp đi sinh mạng của gần nửa triệu người khi nổ xuống các thành phố Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki. Cho đến năm 1951, gần 100.000 người tại Hi-rô-si-ma đã chết vì nhiễm phóng xạ từ bom nguyên tử.
Khi Hi-rô-si-ma bị tấn công bằng bom nguyên tử, cô bé Xa-xa-cô Xa-xa-ki chỉ mới hai tuổi nhưng đã sống sót. Tuy nhiên, cô bé đã bị nhiễm phóng xạ. Mười năm sau, cô bé mắc bệnh nặng và phải nhập viện, nơi cô đếm ngày sống còn và tin vào truyền thuyết rằng gấp đủ 1000 con sếu giấy, cô sẽ khỏi bệnh. Mặc dù đã nhận được hàng nghìn con sếu giấy từ trẻ em khắp nơi, nhưng Xa-xa-cô đã qua đời khi mới gấp được 644 con.
Xúc động trước cái chết của cô bé, học sinh ở thành phố Hi-rô-si-ma đã quyên góp tiền để xây dựng một tượng đài tưởng nhớ các nạn nhân của bom nguyên tử. Tượng cao 9 mét được chế tác với hình ảnh một bé gái nâng cao hai tay cầm một con sếu. Dưới đất, tượng có dòng chữ: 'Chúng tôi muốn thế giới này luôn hòa bình'.
Theo NHỮNG MẨU CHUYỆN LỊCH SỬ THẾ GIỚI
Bom nguyên tử: loại bom có sức công phá và tác động hủy diệt rất lớn, nhiều lần so với bom thông thường.
Phóng xạ nguyên tử: chất phóng xạ được sản sinh ra khi bom nguyên tử phát nổ, gây hại nghiêm trọng cho sức khỏe.
Truyền thuyết: các câu chuyện dân gian kể về các sự kiện lịch sử và nhân vật có tính chất huyền bí hoặc kỳ diệu.
Nội dung chính của Những con sếu bằng giấy
Mỹ ném bom nguyên tử vào hai thành phố Nhật Bản như một hình phạt. Cô bé Xa-xa-ki bị nhiễm phóng xạ sau vụ ném bom đó. Em mong muốn sống, vì vậy đã tin rằng nếu gấp đủ 1000 con sếu giấy, em sẽ khỏi bệnh. Dù em đã qua đời, nhưng học sinh ở thành phố Hi-rô-si-ma đã quyên góp tiền để xây dựng một tượng đài tưởng nhớ các nạn nhân của bom nguyên tử, với mong muốn cho một thế giới hòa bình.
Cấu trúc bài viết Những con sếu bằng giấy
Bài viết có thể chia thành 4 đoạn như sau:
Đoạn 1: Từ đầu đến mới chế tạo xuống Nhật Bản
(Mỹ thả bom nguyên tử xuống Nhật Bản)
Đoạn 2: Từ Hai quả bom ném xuống đến phóng xạ nguyên tử
(Hậu quả của hai quả bom ném xuống)
Đoạn 3: Từ Khi Hi-rô-si-ma bị tấn công bằng bom đến gấp được 644 con
(Khao khát sống của Xa-xa-ki)
Đoạn 4: Phần còn lại
(Ước mong về hòa bình của học sinh ở thành phố Hi-rô-si-ma)
Câu 1 (trang 37 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 1): Khi nào Xa-xa-cô Xa-xa-ki bị ô nhiễm phóng xạ nguyên tử?
Trả lời:
Xa-xa-cô Xa-xa-ki bị nhiễm phóng xạ khi chính phủ Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố lớn của Nhật Bản là Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki.
Câu 2 (trang 37 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 1): Cô bé hi vọng kéo dài cuộc sống của mình như thế nào?
Trả lời:
Cô bé tin vào một truyền thuyết rằng, nếu gấp đủ một nghìn con sếu bằng giấy treo quanh phòng thì cô sẽ khỏi bệnh.
Câu 3 (trang 37 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 1): Các em nhỏ đã làm gì:
a. Để thể hiện sự đoàn kết với Xa – đa – cô?
b. Để bày tỏ mong muốn về hòa bình?
Trả lời:
Các em nhỏ ở khắp nơi trên thế giới đã đến gửi hàng ngàn con sếu đến cho Xa – đa – cô.
Khi Xa – đa – cô qua đời, các em nhỏ đã quyên góp tiền để xây dựng tượng đài để tưởng nhớ những nạn nhân của bom nguyên tử. Trên đỉnh tượng đài có hình ảnh một cô bé giơ cao hai tay nâng một con sếu. Dưới chân tượng đài có dòng chữ: 'Chúng tôi mong muốn thế giới này mãi mãi hòa bình'.
Câu 4 (trang 37 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 1): Nếu đứng trước tượng đài, em sẽ nói gì với Xa – đa – cô?
Trả lời:
Học sinh có thể tự diễn đạt suy nghĩ của mình.
* Gợi ý: Tôi kinh tởm chiến tranh. / Cái chết của bạn làm cho chúng tôi nhận ra sự tàn ác của chiến tranh. / Sự ra đi của bạn nhắc nhở chúng tôi phải yêu thương và bảo vệ hòa bình trên trái đất...
Trắc nghiệm Tập đọc: Những con sếu bằng giấy (có đáp án)
Câu 1: Bài văn mô tả cảnh thường có bao nhiêu phần?
A. Hai phần là mở đầu và phần chính
B. Ba phần là mở đầu, phần chính và kết thúc.
C. Ba phần là mở đầu, thân và kết.
D. Bốn phần là mở đầu, phần chính, kết thúc và tựa đề.
Câu 2: Hãy nối mảnh ghép màu xanh với mảnh ghép màu nâu để tạo thành tên và nhiệm vụ của từng phần trong một bài văn mô tả cảnh:
Câu 3: Chọn phần nào là phần thân bài trong bài văn Hoàng hôn trên sông Hương sau đây:
Hoàng hôn trên sông Hương
Buổi chiều tàn, Huế thường trở về trong một bình yên lạ lùng, khiến tôi cảm thấy như có một điều gì đó yên bình thêm vào trong thành phố đã từng rất yên tĩnh này.
Mùa thu, gió đưa mây về dọc theo dòng sông, mặt nước dưới cầu Tràng Tiền tối đen lại, trong khi ở trên, gần Kim Long, mặt nước sông tỏa sáng màu ngọc lam, chiếu rọi những đám mây hồng tươi của bầu trời chiều. Sông Hương dường như rất nhạy cảm với ánh sáng, khiến cho vào buổi tối, nhìn từ trên cầu, vẫn thấy những mảng màu hồng phai như một hình ảnh mơ hồ trên mặt nước tối om. Phố vắng vẻ, con đường bên bờ sông dài như mở ra dưới bóng râm của những hàng cây xanh um.
Bên bờ sông, xóm Cồn Hến đang nấu cơm chiều, khói bốc lên gợi nhớ một cảnh nguyên thủy. Ở phía xa, sau những khúc cong của dòng sông, tiếng lanh canh của thuyền chài kéo theo những mảnh cá cuối cùng trôi trên mặt nước, làm cho sông trở nên rộn ràng hơn. Và khi dãy đèn đường bắt đầu sáng lên, từ màu đỏ nhạt, chuyển sang màu xanh lá cây và rồi chuyển sang màu trắng phát sáng, những khoảnh khắc yên bình của buổi chiều cũng dần tan biến.
Huế bắt đầu một ngày mới trong một tâm trạng mới, trở lại với cuộc sống bình thường của nó.
Theo tác giả HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Câu 4: Sắp xếp các nội dung sau để được thứ tự miêu tả trong bài Hoàng hôn trên sông Hương:
Câu 5: Sắp xếp các nội dung sau để được thứ tự miêu tả trong bài Quang cảnh làng mạc ngày mùa:
Nhiều chủ đề khác thu hút nhiều sự quan tâm từ các bạn