Kể lại một câu chuyện mà em thích nhất trong những truyện đã học, với 19 mẫu câu chuyện được lựa chọn kỹ lưỡng, giúp các em học sinh lớp 5 phát triển kỹ năng kể chuyện và thực hành kể lại câu chuyện một cách thành thạo.
Thông qua 19 mẫu câu chuyện như Sọ Dừa, Thạch Sanh, Điều ước của Vua Mi-Đát, Cây tre trăm đốt, Nàng Tiên Ốc, Con vịt xấu xí, Rùa và Thỏ... các em sẽ học được cách kể chuyện và nắm vững nội dung của mỗi câu chuyện để kể lại một cách xuất sắc. Mời các em cùng tham khảo bài viết dưới đây của Mytour:
Đề bài: Hãy kể lại một câu chuyện mà em thích nhất từ những truyện đã được học.
Bố cục Kể lại câu chuyện em yêu thích
- Giới thiệu về câu chuyện
- Tiêu đề câu chuyện
- Danh tính nhân vật chính
- Trình bày diễn biến của câu chuyện
- Tóm tắt kết thúc câu chuyện và phân tích ý nghĩa.
Kể lại câu chuyện Cây khế
Trong những câu chuyện đã đọc, câu chuyện em yêu thích nhất là Cây khế.
Cây khế là một câu chuyện cổ tích của dân tộc ta, mang theo mình một bài học quý giá. Nói về hai anh em ruột, mỗi người mang một tính cách riêng biệt. Anh trai tham lam và lười biếng, trong khi em trai hiền lành và chăm chỉ.
Sau khi cha mất, anh trai lấy hết tài sản và chỉ để lại cho em một cây khế già và một chiếc túp lều tranh. Em trai chăm chỉ làm việc và chăm sóc cây khế. Vào một năm nọ, cây khế đơm trái ngọt, thu hút một con chim lạ đến ăn. Nghe em trai than thở, con chim hứa trả vàng thay. Em trai được chim đưa ra đảo và lấy vàng về, trở thành người giàu có. Anh trai ghen tức và lừa em bằng việc đổi tài sản với cây khế. Nhưng do lòng tham, anh ấy lấy quá nhiều vàng, khiến con chim không thể nào chịu được. Trên đường về, anh ta mất hết vàng trong cơn bão.
Câu chuyện này đã dạy em về lòng trung thực và sự chăm chỉ trong cuộc sống. Nói không với lòng tham, lừa dối sẽ gặp kết cục không may như anh trai trong câu chuyện.
Kể câu chuyện Thầy cúng đi viện
Trong lớp 5, em đã được đọc nhiều câu chuyện thú vị và mang lại nhiều bài học quý báu. Trong số đó, em đặc biệt ưa thích câu chuyện Thầy cúng đi viện.
Câu chuyện kể về Cụ Ún - một thầy cúng lâu năm, đã dạy rất nhiều học trò làm nghề cúng bái như mình. Mọi việc diễn ra bình thường cho đến một ngày cụ bị đau bụng dữ dội. Cơn đau khiến cụ gặp nhiều khó khăn, không thể ăn uống hay ngủ được. Dù có học trò giỏi nhất đến cúng cho cụ, nhưng cũng không giúp cụ khỏi bệnh. Cuối cùng, khi cụ đau đớn đến cực độ, hai bác sĩ đã đưa cụ lên viện để điều trị. Sau khi được điều trị và giải thích bởi bác sĩ, cụ Ún đã bắt đầu dần hồi phục. Từ đó, cụ hiểu rằng khi bị bệnh, cần phải đi bệnh viện chứ không nên tin vào cúng bái ở nhà. Cụ Ún cũng chia sẻ điều này với người thân và bà con trong bản.
Câu chuyện này đã giúp lan tỏa kiến thức về khoa học và làm giảm bớt sự mê tín trong dân gian. Đây không chỉ là câu chuyện mang tính giáo dục mà còn rất thú vị và dễ hiểu.
Kể lại câu chuyện Thạch Sanh
Trong thị trấn nhỏ, có một cặp vợ chồng làm nghề thợ mộc, sống đời hiền lành và lòng thương người. Ngọc Hoàng thương họ nên đã ban cho họ một đứa con trai tên là Thạch Sanh. Thạch Sanh lớn lên thông minh, nhanh nhẹn. Một ngày, anh ta cứu được công chúa khỏi cạm bẫy của một con quái vật. Nhà vua biết được việc này, quyết định tặng Thạch Sanh danh hiệu cao quý và phúc lộc cho gia đình anh ta.
Ở làng quê xa xôi, có một người làm nghề bán rượu tên là Lý Thông. Anh ta đã trở thành bạn thân của Thạch Sanh. Một hôm, Lý Thông bị tấn công bởi một con quái vật. Thạch Sanh đã đến cứu anh và đánh bại quái vật đó. Vì sự dũng cảm của mình, Thạch Sanh được nhà vua trao cho danh hiệu cao quý và phúc lộc.
Trong lễ hội, công chúa bị bắt cóc bởi một con chim khổng lồ. Thạch Sanh đã sử dụng tài nghệ của mình để giải cứu công chúa và đánh bại con chim quái vật. Nhà vua biết ơn Thạch Sanh và ban cho anh ta danh hiệu cao quý.
Hồn ma và con đại bàng đã hợp tác với nhau để trả thù Thạch Sanh. Họ đã đánh cắp kho báu của nhà vua và giấu nó ở gốc đa. Thạch Sanh đã chiến thắng họ và đưa kho báu trở lại.
Sau khi được giải cứu, công chúa mất tiếng. Thạch Sanh đã sử dụng đàn thần của mình để giúp công chúa phục hồi tiếng nói. Vì sự giúp đỡ này, Thạch Sanh được nhà vua ban cho danh hiệu cao quý và phúc lộc.
Kể lại câu chuyện về Con Rồng và Cháu Tiên
Ngày xưa, ở đất nước Việt Nam, có một vị thần tên là Lạc Long Quân, con của thần rồng. Thần này có sức mạnh phi thường và thường xuất hiện để giúp đỡ người dân và đánh đuổi yêu quái. Âu Cơ, một tiên nữ, là người phụ nữ thông minh và xinh đẹp, đã trở thành vợ của Lạc Long Quân.
Sau một thời gian, Âu Cơ sinh ra một trăm đứa con, tất cả đều khỏe mạnh và tuấn tú. Chúng lớn nhanh và có sức khỏe tuyệt vời.
Một ngày, Lạc Long Quân cảm thấy nhớ biển cả và nhận ra không thể sống lâu trên cạn được nên phải trở về dưới biển. Âu Cơ tiếc nuối nhưng vẫn tiếp tục nuôi dưỡng các con.
Âu Cơ buồn bã khi phải sống một mình và mong chờ chồng trở về. Cuối cùng, nàng không kìm được lòng, lên tiếng than thở với chồng rằng:
Lạc Long Quân nói:
- Ta là con rồng từ biển sâu, còn nàng là tiên nữ từ núi cao. Vì chênh lệch giữa cuộc sống trên cạn và dưới biển, chúng ta không thể ở cùng nhau lâu dài. Ta sẽ đưa năm mươi con xuống biển, còn nàng đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các vùng. Hãy giúp đỡ nhau khi cần thiết.
Âu Cơ đồng ý và đưa năm mươi người con lên đất Phong Châu. Con trưởng của họ được phong làm vua, lập nước Văn Lang và đặt đô ở Phong Châu. Vương triều có quan văn và quan võ, con trai vua được gọi là lang, con gái vua được gọi là mị nương. Khi vua qua đời, con trưởng sẽ nối ngôi vua. Mười tám thế hệ vua kế vị nhau đều mang hiệu Hùng Vương.
Kể câu chuyện về Sọ Dừa
Có rất nhiều câu chuyện thú vị mà tôi đã nghe. Trong số đó, câu chuyện về Sọ Dừa là một trong những câu chuyện yêu thích của tôi với nhiều bài học quý giá.
Xưa kia, có một cặp vợ chồng nông dân nghèo phải ở lại nhà của một ông già giàu có. Dù họ làm việc chăm chỉ và hiền lành, nhưng đã qua năm mươi tuổi mà họ vẫn chưa có con. Một ngày, khi người vợ đi rừng lấy củi, cô thấy một chiếc sọ dừa đựng nước mưa dưới gốc cây lớn. Cô uống và mang về nhà. Không lâu sau, người chồng qua đời và cô sinh ra một đứa con không có tay chân, như một quả dừa. Cậu bé bảo mẹ:
- Mẹ ơi! Con là người đấy! Xin mẹ đừng vứt con mà tội nghiệp.
Bà lão thương xót và quyết định để lại con và đặt tên cho cậu bé là Sọ Dừa. Khi lớn lên, Sọ Dừa vẫn giữ nguyên tình trạng của mình. Bà mẹ lo lắng cho cậu và Sọ Dừa quyết định xin phú ông để chăn bò.
Khi nghe về Sọ Dừa, phú ông không chắc chắn. Tuy nhiên, ông nghĩ rằng việc nuôi Sọ Dừa không tốn nhiều cơm và công sức lại không đáng kể. Phú ông đã đồng ý và không ngờ rằng Sọ Dừa lại làm việc rất giỏi. Hàng ngày, cậu bé đưa đàn bò ra đồng và tối về đưa chúng về nhà, đàn bò luôn no đủ. Phú ông rất vui mừng về điều này!
Vào mùa, tôi tớ làm hết công việc trong đồng, phú ông đã giao ba cô con gái lần lượt đem cơm cho Sọ Dừa. Trong những lần đó, hai cô chị thường trêu chọc và bắt nạt Sọ Dừa, chỉ có cô em thể hiện lòng thương xót và tôn trọng cậu.
Một ngày, khi cô út mang cơm cho Sọ Dừa, cô nghe thấy tiếng sáo rền từ xa. Rón rén bước đến, cô nhìn thấy một chàng trai tuấn tú đang thổi sáo trên chiếc võng đào cho đàn bò ăn cỏ. Thế nhưng khi cô nhìn lại, chàng trai đã biến mất và chỉ còn Sọ Dừa nằm đó. Cô út hiểu Sọ Dừa không phải là người bình thường, và từ đó cô bắt đầu yêu quý cậu.
Cuối mùa, khi Sọ Dừa trở về nhà, cậu ấy muốn mẹ đến hỏi con gái của phú ông làm vợ. Bà lão sửng sốt nhưng sau khi cậu ấy năn nỉ, bà cũng đồng ý.
Khi thấy mẹ Sọ Dừa mang cau đến, phú ông cười nhạo và nói:
- Nếu muốn hỏi con gái ta, hãy mang đến một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.
Bà lão rời đi với suy nghĩ sẽ dừng lại việc kết hôn cho con. Nhưng đến ngày hẹn, mọi thứ đều được chuẩn bị cẩn thận và đầy đủ, thậm chí có cả gia đình của Sọ Dừa tới nhà phú ông. Phú ông rất ngạc nhiên và khi gọi ba cô con gái ra hỏi ý, hai cô chị chê bai Sọ Dừa xấu xí và đi vào, chỉ có cô út e lệ đồng ý bằng lòng.
Trong ngày cưới, Sọ Dừa đặt bày cỗ thật tráng lệ, mọi người rộn ràng tấp nập. Khi rước dâu, mọi người đều ngạc nhiên khi thấy Sọ Dừa không còn trọc lốc và xấu xí nữa, chỉ thấy một chàng trai tuấn tú đứng bên cô út. Mọi người đều cảm thấy ngạc nhiên và vui mừng, nhưng hai cô chị thì vừa tiếc nuối vừa ghen tức.
Từ lúc đó, Sọ Dừa và vợ sống hạnh phúc bên nhau. Sọ Dừa không chỉ thông minh mà còn rất cần cù. Anh ta học hành miệt mài và cuối cùng đỗ trạng nguyên. Tuy nhiên, không lâu sau đó, vua sai Sọ Dừa đi sứ. Trước khi đi, anh ta trao cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng gà để bảo vệ bản thân.
Hai cô chị ganh tị cô em và âm mưu hại cô để lấy chỗ làm bà trạng. Họ đưa cô em ra biển rồi đẩy xuống nước. May mắn thay, cô em có con dao và thoát chết. Cô lạc vào một hòn đảo, sử dụng dao để mở bụng cá và lửa để nướng thịt cá. Sau một thời gian sống trên đảo, hai quả trứng gà nở và trở thành đôi gà để cô em nuôi.
Một ngày, khi có một chiếc thuyền đi qua đảo, con gà trống gáy lớn: “Ò… ó… o…. Phải đưa cô tôi về”.
Quan trạng thấy đó chính là vợ mình. Hai vợ chồng gặp nhau và rất vui vẻ. Quan trạng mừng, tổ chức tiệc mời bà con đến chia vui nhưng giấu vợ trong nhà. Hai cô chị thì mừng rỡ và kể chuyện cô em ra biển. Sau khi tiệc xong, họ mới cho vợ ra. Nhìn thấy cô em, hai cô chị xấu hổ và lén rời đi biệt xứ.
Kể lại câu chuyện Sự tích cây vú sữa
Xưa kia, có một đứa bé được mẹ chiều chuộng nên rất nghịch ngợm và thích chơi bời. Một lần, bị mắng, đứa bé bỏ đi. Lang thang khắp nơi, mẹ ở nhà lo lắng không biết đứa bé ở đâu. Ngày ngày mẹ đợi chờ trước cửa. Thời gian trôi qua, đứa bé chưa về. Mẹ kiệt sức gục xuống. Một hôm, đói rét và bị đánh, đứa bé mới nhớ đến mẹ.
- Khi đói, mẹ vẫn cho ăn, khi bị đánh, mẹ vẫn ở bên, chỉ cần về với mẹ thôi.
Đứa bé tìm đường về. Ở nhà, vẫn như cũ, nhưng không thấy mẹ đâu. Đứa bé gọi:
- Mẹ ơi, mẹ đi đâu rồi, con đói quá! - Đứa bé ôm cây xanh trong vườn mà khóc.
Kỳ lạ, cây run rẩy. Từ cành lá, hoa nhỏ trổ ra, nở trắng như mây. Hoa rụng, quả to rơi vào tay đứa bé.
Đứa bé nhấm một miếng to. Chát quá! Quả thứ hai rơi xuống. Đứa bé lột vỏ, nhấm vào hạt quả. Cứng quá. Quả thứ ba rơi xuống. Đứa bé bóp quanh quả, lớp vỏ mềm dần rồi nứt ra, sữa trắng ngọt ngào trào ra, thơm như sữa mẹ.
Đứa bé hấp môi, hứng dòng sữa ngọt ngào, thơm như sữa mẹ.
Cây rung rinh cành lá, thì thầm:
- Ăn ba lần mới biết ngon, lớn lên mới hiểu lòng mẹ.
Đứa bé khóc. Mẹ đã ra đi. Nhìn lá cây, một mặt xanh, mặt kia đỏ như mắt mẹ chờ con. Đứa bé ôm cây, thân cây thô ráp như đôi bàn tay làm việc của mẹ. Nước mắt đọng trên gốc cây, Cây ôm đứa bé, rung lá như tay mẹ âu yếm vỗ về.
Cậu kể về câu chuyện của người mẹ và ân hận của mình. Trái cây thơm ngon trong vườn nhà, mọi người đều thích. Họ mang về trồng khắp nơi và đặt tên là Cây Vú Sữa.
Kể lại câu chuyện Cây cỏ nước Nam
Nguyễn Bá Tĩnh, còn được biết đến là Tuệ Tĩnh, là một danh y thời đời Trần. Một lần, ông dẫn học trò đi ngược vùng Phả Lại để lên núi Nam Tào, Bắc Đẩu, hai ngọn núi cao uy nghi, đối mặt với vùng sông nước nguy hiểm. Dọc hai bên đường lên núi là những bụi sâm nam lá xanh tươi, những bụi cây đinh lăng lá xanh mướt, những bụi cam thảo leo vượt qua mặt đường.
Dừng chân bên dốc núi, ông trầm ngâm nói với học trò:
- Ta dẫn các con đến đây để chia sẻ với các con những suy tư nhiều năm qua.
Một số học trò nói lảng tai:
- Chắc chắn có điều gì quan trọng lắm nên thầy mới phải suy nghĩ lâu đến thế. Nguyễn Bá Tĩnh gật đầu:
- Điều mà ta chuẩn bị nói với các con không lớn lao như núi Thái Sơn, cũng không xa xôi như biển Bắc Hải mà ở gần ngay dưới chân các con đây.
Tất cả học trò đều im lặng, chỉ có một người tỏ ra trưởng trọng hỏi:
- Thưa thầy, điều mà thầy muốn chia sẻ với chúng con có liên quan đến cây cỏ ở dưới chân...
- Đúng vậy, ta muốn nói về cây và cỏ mà hàng ngày các con vẫn bước qua... Chúng chính là một phần của đội quân mạnh mẽ, đóng góp vào chiến thắng của các vị anh hùng như Hưng Đạo Vương chống lại quân Nguyên xâm lược.
Rồi ông kể tiếp:
- Vào thời kỳ đó, kẻ thù đã tiến sâu vào lãnh thổ của chúng ta. Vua và các quan nhà Trần đã rất cẩn trọng trong việc bảo vệ biên giới. Bên cạnh việc huấn luyện dân binh, triều đình còn chuẩn bị vũ khí, chuẩn bị ngựa voi, thực phẩm, và thuốc men... Tuy nhiên, từ lâu, nhà Nguyên đã ngăn chặn việc vận chuyển thuốc men và các vật dụng khác xuống miền Nam. Khi có binh sĩ bị thương hoặc mắc bệnh, làm sao để chữa trị? Không chần chừ, các thầy thuốc đã học hỏi từ kiến thức y học dân gian và tạo ra các vườn thuốc khắp nơi. Núi Nam Tào và Bắc Đẩu chính là hai ngọn núi thuốc của các vị vua Trần xưa. Cây cỏ nước Nam đã đóng góp vào sức mạnh của các binh sĩ, giúp họ mạnh mẽ, kiên cường, và khỏe mạnh trong cuộc chiến chống lại kẻ thù mạnh hơn hàng chục lần, đông hơn hàng trăm lần.
Kể xong, Tuệ Tĩnh nói tiếp:
- Mỗi ngọn cây, mỗi sợi cỏ trong tự nhiên là quý giá, là di sản của tổ tiên chúng ta. Ta muốn tiếp tục truyền lại những kiến thức và bài học của những người tiền bối để từ nay về sau, dân ta có thêm thuốc chữa bệnh. Ta chia sẻ để các con hiểu ý định của ta.
Theo lối tư duy của danh y Tuệ Tĩnh, đến nay, hàng trăm loại thuốc đã được chiết xuất từ cây cỏ nước Nam, hàng nghìn biện pháp điều trị đã được kết hợp từ kiến thức y học dân gian để giúp người bệnh.
Kể lại câu chuyện về Lý Tự Trọng
Lý Tự Trọng sinh ra tại Hà Tĩnh, trong một gia đình yêu nước. Ông tham gia phong trào cách mạng và được gửi đi học ở nước ngoài vào năm 1928. Ông có thể nói lưu loát tiếng Trung Quốc và tiếng Anh.
Sau khi trở về nước vào mùa thu năm 1929, ông được giao nhiệm vụ làm công tác liên lạc, truyền nhận thư tài liệu cho các đảng bạn thông qua đường hàng hải. Để công việc thuận tiện hơn, ông đảm nhận vai trò như người hứng than tại bến cảng Sài Gòn.
Một lần, khi ông Trọng đang mang theo một bọc truyền đơn gói vào một cái màn buộc phía sau xe. Đi qua một con phố, một tên lính pháp gọi lại để kiểm tra, ông vội vã nhảy xuống và giả vờ mở bọc ra, nhưng thực tế là buộc chặt hơn. Khi tên lính lo lắng, ông đã nắm lấy chiếc xe của hắn và chạy mất. Trong một trường hợp khác, ông đang truyền tài liệu từ tàu biển lên bờ, nhưng bị lính địch giữ lại kiểm tra. Ông nhanh chóng nhảy xuống nước và lặn qua gầm tàu để trốn thoát.
Vào đầu năm 1931, trong một cuộc biểu tình, khi một số quan chức của chúng ta đang nói chuyện trước đám đông, một thanh tra bí mật của quân Pháp đến và dự định bắt giữ họ. Lý Tự Trọng rút súng và bắn chết thanh tra. Tuy nhiên, ông không kịp trốn thoát và bị quân địch bắt giữ.
Kẻ thù đã tàn bạo tra tấn ông, khiến ông chết đi sống lại, nhưng họ không thể lục được bí mật gì từ ông.
Trong nhà tù, ông được nhân viên giam giữ tôn trọng và kính trọng. Họ gọi ông một cách thân mật là 'Ông Nhỏ'.
Trước toà án, ông táo bạo đối diện với bọn thực dân và tuyên truyền lý tưởng cách mạng. Luật sư bảo vệ ông cho biết ông còn quá trẻ để hiểu biết và hành động. Ông đứng lên ngay lập tức và nói:
- Dù tôi còn nhỏ tuổi, nhưng tôi hiểu rõ rằng thanh niên Việt Nam chỉ có một con đường duy nhất là đấu tranh cách mạng, không thể có con đường nào khác…
Thực dân Pháp, không minding dư luận và pháp luật, đã xử tử ông vào một ngày cuối năm 1931.
Trước khi ra đi, ông hát vang bài Quốc tế. Vào năm đó, ông chỉ mới 17 tuổi.
Kể lại câu chuyện về Con Vịt Xấu Xí
Mỗi khi mùa đông tới, các đàn chim lại hướng về phương Nam để tránh khỏi cái lạnh rét buốt của thời tiết.
Vào năm đó, cặp vợ chồng Thiên Nga vừa sinh được một nàng Thiên Nga nhỏ. Do con còn quá yếu đuối nên họ phải dừng chân nghỉ ngơi dọc đường. Lo sợ không thể vượt qua đoạn đường dài, thiên nga mẹ đề nghị với thiên nga bố để nhờ ai đó chăm sóc con và chờ đến năm sau đón con. Rất may, trên đường đi, họ gặp cô vịt đang chăm sóc đàn con nhỏ, ngang tuổi với thiên nga con, và họ đã nhờ vả cô. Cảm kích với lòng nhân ái của gia đình thiên nga, vịt mẹ đã đồng ý, sau đó cả hai cùng mừng vui và cảm ơn rồi tiếp tục bay đi.
Thiên Nga con ở lại với gia đình vịt. Vì ngoại hình khác biệt so với các bạn vịt khác, nên nó luôn bị chúng ức hiếp và trêu chọc. Thân hình gầy guộc, cổ dài loằng ngoằng, lại vụng về và chậm chạp. Dù được vịt mẹ giải thích và khuyên bảo, nhưng các bạn vịt vẫn tiếp tục chỉ trích nó. Thiên Nga con cảm thấy rất buồn vì không ai chịu chơi với nó. Thời gian trôi đi nhanh chóng, và mùa xuân ấm áp đã đến. Bố mẹ Thiên Nga vui mừng khi đón con về, họ rất hạnh phúc khi nhìn thấy con đã trưởng thành và mạnh mẽ hơn nhiều. Thiên Nga con cảm thấy vừa vui vẻ vừa buồn bã. Nó chạy đến ôm vịt mẹ và nói lời cảm ơn trước khi chia tay các bạn vịt, sau đó, cùng mẹ, nó lên đường khám phá những thế giới mới.
Bầy vịt con bỗng nhận ra rằng Thiên Nga là loài chim xinh đẹp và hiền lành nhất. Chúng cảm thấy hối hận và xấu hổ vì đã đối xử không tốt với bạn thiên Nga nhỏ. Từ đó, chúng trở nên hoà thuận và thân thiện hơn với mọi loài vật xung quanh.
Kể lại câu chuyện về Điều Ước của Vua Mi-đát
Kể về Điều Ước của Vua Mi-đát - Phần 1
Cuộc sống con người thường kết nối với những ước mơ. Có những ước mơ ngọt ngào mang lại hạnh phúc, nhưng cũng có những ước mơ tham lam mang lại nhiều phiền toái. Câu chuyện sau đây thể hiện điều đó: Điều Ước của Vua Mi-đát
Ở đất nước cổ xưa Hi Lạp, có một vị vua nổi tiếng với lòng tham vô độ, ông tên là Mi-đát.
Một ngày kia, khi Mi - đát lang thang trong khu vườn của cung điện, ông gặp thần Đi - ô - ni - dốt và được thần ban cho một điều ước. Với tính tham lam, Mi - đát ngay lập tức thốt lên:
- Xin thần biến mọi thứ tôi chạm vào thành vàng!
Thần thực hiện ước nguyện tham lam của Mi - đát rồi biến mất. Mi - đát sung sướng hòa mình vào việc bẻ thử một cành sồi, và cành cây liền biến thành vàng. Ông nhặt một quả táo, và quả táo cũng biến thành vàng ngay lập tức. Mi - đát hân hoan cho rằng mình đã trở thành người hạnh phúc nhất mà không nghĩ đến những rắc rối đang đợi mình phía trước...
Bữa ăn được người hầu mang ra. Nhưng giờ đây ông mới nhận ra rằng ông đã ước một điều kinh khủng: mọi thức ăn khi ông chạm vào đều biến thành vàng. Với bụng đói nhưng không có gì để ăn, Mi - đát hối hận, khẩn cầu thần Đi - ô - ni - dốt. Bất ngờ, thần xuất hiện và nghiêm túc phán:
- Hãy đến bên bờ sông Pác - tôn, ngâm mình trong dòng nước, phép màu sẽ tan biến.
Mi - đát làm như vậy và phép màu biến mất.
Bạn thấy đấy, hạnh phúc không đến từ việc ước muốn tham lam mà từ sự cống hiến của bản thân.
Kể Điều ước của vua Mi - đát - Phiên bản 2
Mỗi câu chuyện đều chứa đựng một bài học quý giá. Đó có thể là kiến thức hữu ích, cũng có thể là bài học về đạo đức. Chắc chắn mỗi người trong chúng ta đều biết về câu chuyện “Điều ước của vua Mi - đát”. Câu chuyện đã đem lại cho tôi một bài học về lòng tham của con người.
Câu chuyện kể rằng: thuở xưa, tại vương quốc Hi Lạp, có một vị vua tên là Mi - đát, người được biết đến với tính tham lam. Thần Đi - ô - ni - dốt, nhận biết được lòng tham không đáy của vua Mi - đát, đã xuất hiện trước mặt vua và truyền đạt một bài học cho ông. Một ngày nọ, khi vua Mi - đát thảnh thơi tản bộ trong khu vườn của cung điện, thần Đi - ô - ni - dốt xuất hiện và phán:
- Ta ban cho ngươi một điều ước, điều ước sẽ thực hiện ngay.
Nghe lời này, vua Mi - đát hí hửng. Với tính tham lam vốn có, ông ước:
- Xin thần biến mọi vật mà ta chạm vào thành vàng!
Thần thực hiện điều ước tham lam đó cho Mi - đát rồi biến mất. Ngay sau đó, vua Mi - đát muốn thử sức của điều ước nên chạm vào một cành sồi gần đó. Cành cây lập tức biến thành vàng khi ông chạm vào. Ông nhặt một quả táo, và quả táo cũng chuyển thành vàng ngay lập tức. Mi - đát sung sướng nghĩ rằng mình là người giàu có nhất, hạnh phúc nhất trên thế gian này. Ông tin rằng không ai có thể giàu có hơn mình.
Khi đến bữa ăn, vua Mi - đát hạnh phúc ngồi vào bàn tiệc, chờ thức ăn được dọn ra. Nhưng thật không may, mọi thứ trên bàn, từ bát đĩa đến cốc chén, đều biến thành vàng khi ông chạm vào. Không có thứ gì có thể ăn được nữa. Ông đói đến cồn cào, trong nỗi sợ hãi và cảm thấy cô đơn, ông quỳ gối xin thần Đi - ô - ni - dốt:
- Xin thần hủy bỏ điều ước để tôi có thể sống.
Không lâu sau đó, thần Đi - ô - ni - dốt xuất hiện, nhìn vua Mi - đát với vẻ mặt nghiêm túc và phán:
- Hãy đến sông Pác - tôn, ngâm mình vào dòng nước, phép màu sẽ tan biến. Lòng tham lam của ngươi cũng sẽ được rửa sạch.
Vua Mi - đát nhanh chóng thực hiện lời thần. Thật không ngờ, sau khi ngâm mình trong dòng sông, phép màu đã biến mất. Ông không còn mê muội tham lam như trước.
“Điều ước của vua Mi - đát” không chỉ là một câu chuyện hài hước mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Qua câu chuyện này, ta nhận ra rằng tham lam không mang lại hạnh phúc. Thực tế, nó thường gây ra những hậu quả không lường trước được.
Kể về Điều ước của vua Mi - đát - Phiên bản 3
Trong những câu truyện mà em đã học, 'Điều ước của vua Mi-đát' là câu chuyện mà em ấn tượng và nhớ lâu nhất.
Câu chuyện kể về vua Mi-đát, một vị vua tham lam của đất nước Hy Lạp cổ đại. Một ngày nọ, ông gặp thần Đi-ô-ni-dốt trong vườn thượng uyển và được thần ban cho một điều ước. Không do dự, vua Mi-đát ngay lập tức ước có khả năng biến mọi thứ thành vàng khi chạm vào. Sau khi điều ước thành hiện thực, vua rất phấn khích và thử nghiệm sức mạnh mới của mình bằng cách chạm vào mọi thứ xung quanh. Mọi vật từ nước, hoa, cành cây đều biến thành vàng. Vua Mi-đát rất vui sướng và mãn nguyện. Tuy nhiên, khi đói, vua gặp khó khăn khi thức ăn biến thành vàng. Hắn thấy mình không thể ăn được gì, khiến ông hoảng sợ. Ông khóc lóc cầu xin thần hồi phục phép màu. Thần hồi phục và chỉ cho vua tìm sông Pác-tôn để rửa sạch phép màu. Từ đó, vua Mi-đát từ bỏ tham lam và trở thành một vị vua hiền lành và nhân từ.
Từ câu chuyện này, em học được bài học quý giá từ vua Mi-đát rằng cuộc sống cần biết đâu là giới hạn, không nên quá tham lam vì sẽ gây ra những hậu quả không lường trước được.
Kể câu chuyện về Ông Nguyễn Khoa Đăng
Kể câu chuyện về Ông Nguyễn Khoa Đăng - Phiên bản 1
Trong những câu chuyện học ở Tiểu học, câu chuyện về ông Nguyễn Khoa Đăng là câu chuyện mà tôi thích nhất. Ông là một quan chức tài ba trong việc xử lý và giải quyết vấn đề cho dân.
Một lần, có một anh hàng dầu bán hàng ra chợ. Khi đang bận rộn phục vụ khách hàng, anh ta bị một người lấy trộm tiền từ túi quần. Sau khi phát hiện tiền bị mất, anh ta nhớ lại rằng có một người mù đang ở gần gánh hàng của mình, nhưng không chịu ra đi dù anh đã nhắc nhở. Anh nghĩ rằng đó chính là kẻ đã lấy trộm tiền của mình. Anh gửi gánh hàng cho người quen và sau đó đi tìm kiếm. Người mù phủ nhận và cho rằng mình không thể là kẻ trộm vì đã mù và không biết tiền ở đâu. Hai bên cãi nhau một thời gian trước khi bị lính bắt và dẫn đến trước ông quan.
Trước ông quan Nguyễn Khoa Đăng, người mù vẫn cứ nài nỉ rằng anh hàng dầu đã vô tội. Quan hỏi:
- Anh có mang tiền không?
Người mù nói:
- Vâng, nhưng đó là tiền của tôi.
- Hãy đưa đây!
Khi người mù rút tiền ra, quan yêu cầu người khác múc một chậu nước, và họ bỏ số tiền vào đó. Dầu trong chậu nổi lên. Người mù không còn cách nào khác ngoài việc phải thừa nhận. Họ nghĩ vụ án đã kết thúc, nhưng quan bất ngờ phát biểu:
- Kẻ này giả mù. Vì nếu thực sự mù thì làm sao hắn biết nơi để lấy tiền.
Sau đó, ông sai lính đánh kẻ ăn cắp. Bị đánh đau, hắn phải mở mắt, van xin quan tha tội.
Câu chuyện này nói về tài xét xử của ông Nguyễn Khoa Đăng. Ông đã trừ gian phi trừ hậu hoạ cho dân bằng sự thông minh và mưu mẹo. Ông đã làm cho một con đường nhà Hồ ở Quảng Trị không còn là nơi của bọn cướp gian phi. Trước đó, đó là một khu rừng rậm, là con đường quan trọng từ Bắc vào Nam, nhưng bọn cướp đã biến nó thành nơi sợ hãi.
Để bắt bọn cướp, ông đã làm một hòm gỗ có lỗ nhỏ để thông hơi, có thể mở nắp dễ dàng từ bên trong. Ông gửi các võ sĩ và quân lính ăn mặc như thường dân ngồi trong các hòm và cho chúng vượt qua con đường. Bọn cướp nghe tin về một quan lớn mang hàng quý giá sắp đi qua, và họ đã rơi vào bẫy. Khi mở ra, các võ sĩ quân đến bắt chúng. Bọn cướp phải đầu hàng và được dùng để khai khẩn và xây dựng các khu định cư mới.
Tôi rất ngưỡng mộ ông Nguyễn Khoa Đăng và tôi quyết tâm học tập để trở thành một người như ông, có tài năng và trung thực.
Kể chuyện Ông Nguyễn Khoa Đăng - Mẫu 2
Sau khi ăn tối xong, Hà - em trai của tôi mời tôi ra sân hóng mát và ngắm trăng sao. Hà học lớp Hai, còn tôi học ba lớp. Bé rất thích nghe chuyện. Mỗi khi rảnh rỗi, bé đều bắt tôi kể những câu chuyện mà tôi đã học hoặc đã đọc.
- Chị kể cho em nghe câu chuyện mà chị thích nhất đi!
Tôi suy nghĩ một lúc, sau đó nói:
- Ừ, để chị kể cho em về ông Nguyễn Khoa Đăng, một quan lại có tài năng trong việc xét xử và đưa ra các biện pháp để bảo vệ dân chúng. Chuyện là như thế này.
Một lần, có một người bán dầu gánh hàng ra chợ bán. Khi anh ta bận đong dầu cho khách, có một người thò tay vào lấy trộm tiền. Sau khi phát hiện bị mất tiền, anh ta nhận ra người mù đang ở gần gánh hàng và nghi ngờ anh ta là kẻ trộm. Anh ta để gánh hàng cho người quen rồi chạy đi tìm. Người mù phủ nhận và cho rằng vì mình là người mù nên không thể lấy trộm được. Hai bên tranh cãi một lúc rồi bị lính bắt giữ và đưa về gặp quan.
Trước mặt quan Nguyễn Khoa Đăng, người mù kiên quyết phủ nhận sự tố cáo của người bán dầu. Quan hỏi:
- Anh có mang theo tiền không?
Người mù trả lời:
- Có, nhưng đó là tiền của tôi.
- Hãy đưa ra đây!
Khi người mù rút tiền ra, quan sai người múc một chậu nước, cho số tiền vào chậu. Dầu trên mặt nước nổi lên. Người mù buộc phải thú nhận tội. Tưởng như vụ án đã kết thúc, nhưng quan lại phán: “Kẻ trộm này là kẻ giả mù. Vì nếu thực sự mù thì sao hắn biết tiền ở đâu để lấy.”
Sau đó, ông sai lính đánh kẻ trộm. Bị đánh đau, kẻ trộm buộc phải mở mắt ra, van xin quan tha tội.
Đó là câu chuyện về tài năng xét xử của ông. Còn câu chuyện này khiến tôi ngưỡng mộ lòng dũng cảm, tài trí và sự khôn ngoan trong việc tiêu diệt bọn cướp trở ngại cho dân của ông Nguyễn Khoa Đăng. Trong thời gian làm quan, ông đã làm cho dọc đường truông nhà Hồ ở Quảng Trị không còn một bóng cướp. Trước đó, đoạn truông này bị bao phủ bởi rừng rậm, là nơi tội phạm thường dùng làm nơi ẩn náu.
Để bắt bọn cướp, ông sáng chế ra một loại hòm gỗ kín, có lỗ để hít khí, đủ cho một người ngồi, có khóa bên trong để người ngồi có thể mở nắp hòm dễ dàng. Ông bắt các võ sĩ giỏi võ nghệ ngồi trong và sai quân lính mặc quần áo thường dân khiêng những hòm đó đi qua truông. Rồi, đồn tin lan truyền rằng có một quan lớn ở phương Bắc sắp về quê qua đường truông, cùng với những hòm hàng quý giá. Bọn cướp vui mừng khi nghe tin này, tin rằng chuyến này sẽ mang lại lợi nhuận lớn. Họ hí hửng khiêng những hòm đến sào huyệt. Nhưng khi đến nơi, những hòm bất ngờ mở ra, các võ sĩ cầm kiếm đột ngột xuất hiện. Trước khi kịp phản ứng, binh sĩ của triều đình đã kéo tới. Bọn cướp không còn cách nào khác ngoài việc đầu hàng, cầu xin tha mạng. Ông quan sử dụng bọn cướp đó để khai khẩn đất hoang ở biên giới, thành lập các đồn điền lớn. Sau đó, ông dẫn dân đến định cư hai bên truông, biến một khu rừng u ám và hoang sơ thành những xóm làng đông đúc và an lành.
Kể câu chuyện Sự tích cây khế
Một buổi trưa hè, em được ban cho một giấc mơ ngọt ngào. Trong giấc mơ, em thấy một căn lều nhỏ và một cây khế rậm rạp đang đầy quả. Đó chính là câu chuyện về “Cây khế”.
Ngày xưa, trong một gia đình có hai anh em. Gia đình sống hạnh phúc, nhưng sau mấy năm, mẹ của họ qua đời. Một thời gian sau đó, anh trai lấy vợ. Vì không muốn em sống chung, hai vợ chồng anh quyết định chia tài sản. Mặc dù có vợ và con, anh trai chỉ để lại một căn lều và một cây khế. Em ra đi mà không oán trách gì anh trai. Khi cây khế cho quả, có một con chim lạ đến và ăn hết trái này đến trái khác. Em lo lắng và nói với con chim.
- “Tài sản của gia đình tôi chỉ còn lại cây khế này, nếu chim ăn hết thì tôi sẽ phải tin cậy vào điều gì?” Nghe thấy điều này, con chim đáp:
- “Ăn một quả, nhận một cục vàng, hãy đóng vào túi ba gang”. Theo lời của con chim, em đã may túi ba gang. Sáng hôm sau, con chim dẫn em đến một hòn đảo xa xôi. Hòn đảo tỏa sáng lung linh. Tại đó, em đã đầy túi ba gang và rồi trở về với con chim. Từ đó, em có cuộc sống giàu có. Khi anh trai thấy em trở nên giàu có, anh ta đến thăm và hỏi han. Em kể cho anh nghe toàn bộ câu chuyện.
Thấy vậy, anh trai quyết định đổi cả tài sản lấy cây khế. Mỗi ngày, anh ta đều xin em đổi lại. Vì thương anh, em đã chấp nhận. Đến mùa cây khế cho quả, hai vợ chồng anh em liên tục trực dưới gốc cây để chờ con chim lạ. Một ngày, họ thấy một con chim khổng lồ đậu trên cây khế và ăn trái. Tình huống trở nên giống như với em trai. Tuy nhiên, lần này, anh trai may túi mười hai gang. Khi đến hòn đảo, anh ta đầy túi mười hai gang và còn đầy túi trên người. Anh trai vất vả vác túi vàng khổng lồ và thân mình nặng trĩu lên lưng con chim. Vì quá nặng, con chim phải đập cánh ba lần mới có thể bay lên.
Khi bay qua biển, một cơn gió mạnh đã làm chim lạc mất người anh và túi vàng của anh rơi xuống biển. Đúng như câu tục ngữ “Tham làm thâm”. Đó là bài học quý giá cho mọi người về việc không nên tham lam và ích kỷ.
Kể câu chuyện Nàng tiên Sò
Tuổi thơ của tôi đã được ngập tràn trong những câu chuyện cổ tích quý báu. Mỗi câu chuyện tôi học ở trường hoặc nghe bà kể đã ăn sâu vào trong ký ức của tôi. Một câu chuyện mà tôi luôn nhớ đó là câu chuyện về Nàng tiên Sò. Chuyện kể rằng:
Ngày xưa, ở một ngôi làng xa xôi, có một bà lão nghèo khổ. Bà già ấy già yếu, bệnh tật, gương mặt bà xanh xao với những nếp nhăn sâu và biểu hiện buồn bã. Bà sống cô đơn, không có ai bên cạnh để giúp đỡ và chăm sóc cho bà. Hàng ngày, bà phải ra đồng bắt ốc, mò cua để kiếm tiền, kiếm gạo để sống.
Một ngày nọ, bà lão bắt được một con ốc rất đẹp. Con ốc đó lớn hơn đầu ngón tay cái của bà một chút, vỏ ốc có màu xanh ngọc lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời. Bà rất vui mừng, bảo vệ con ốc trên bàn tay nhỏ bé, thô ráp và nhiều vết trầy xước. Bà cảm thấy thương con ốc quá. Có lẽ vì điều đó, bà không bán con ốc để kiếm tiền mua gạo. Thay vào đó, bà đem con ốc về nuôi trong chậu nước. Ngày qua ngày, bà tiếp tục công việc của mình, đi bắt ốc, mò cua như thường lệ nhưng khi về nhà, bà đã ngạc nhiên khi thấy vườn nhà sạch sẽ, lợn gà no nê, vườn rau tươi tốt và đã có cơm nước sẵn sàng. Bà tự hỏi không biết ai đã giúp mình. Bà suy nghĩ mãi nhưng không thể tìm ra câu trả lời.
Một ngày nọ, bà lão đi ra đồng như thường nhưng lúc quay về, bà nín thở ẩn sau cánh cửa, để xem ai đã giúp mình. Bà thấy một cô gái xinh đẹp từ trong chum nước đi ra. Cô gái có làn da trắng mịn, đôi mắt đen sâu ẩn dưới hàng mi cong vút. Tóc cô đen óng ả, dài mượt. Cô mặc chiếc áo màu xanh ngọc, lấp lánh dưới ánh nắng ban mai. Dáng đi uyển chuyển, làm việc nhanh nhẹn. Quét nhà, quét sân, cho lợn ăn, nhổ cỏ vườn rồi nấu cơm canh cho bà lão. Bí mật đã được bà lão phát hiện. Bà lặng lẽ chạy lại chum nước, thấy vỏ ốc nằm dưới đáy chum, bà đập vỡ vỏ ốc rồi ôm chầm lấy cô gái. Đó chính là nàng tiên Ốc đã ở lại với bà lão. Họ sống hạnh phúc như mẹ con.
Từ đó, bà lão nghèo nhưng hào hiệp đã có được hạnh phúc: Bà không còn cô đơn nữa.
Truyện về Hoa Hồng
Mẹ thường kể cho tôi nghe nhiều câu chuyện cổ tích. Mỗi câu chuyện mẹ kể đều đầy ánh sáng và màu sắc rực rỡ của hoa lá, lung linh như cầu vồng. Câu chuyện vui nhộn như 'Chú mèo đi hia', hiền lành như 'Tấm Cám', nhưng câu chuyện sâu sắc và đầy cảm xúc nhất vẫn là 'Truyện về Hoa Hồng'.
Ngày xưa, ở một xứ sở lạnh lẽo, xa nước ta, có hai mẹ con sống trong một căn nhà gỗ xinh đẹp. Làng của họ gần núi, có rừng nấm và quả thơm, cây cao, chim hót. Mẹ làm thủ công còn con trai làm ruộng ở cánh đồng xa.
Một hôm, mẹ chàng bị ốm nặng. Chàng trai dừng lại mọi công việc để chăm sóc mẹ. Nhưng tình trạng sức khỏe của mẹ ngày càng trở nên nặng nề. Chàng đau lòng khi nhìn thấy mẹ yếu đuối, mong manh trên giường bệnh! Thần Mặt Trời đến nhà chàng, chỉ dẫn chàng lên đỉnh núi tuyết để lấy cây thuốc từ bà Chúa thiên thần. Thần Mặt Trời sẽ điều chỉnh thời gian để chàng có đủ thời gian mang thuốc về cho mẹ. Chàng ngay lập tức bắt đầu hành trình. Vượt qua rừng thông, thác cao, núi đá gập ghềnh, chông gai, chàng đến vùng đất tuyết phủ của các thiên thần. Quần áo chàng rách nát, chân chàng chảy máu. Máu chảy trên dốc núi, trên đỉnh núi, trên tuyết trắng nhưng chàng vẫn tiếp tục bước đi. Đôi chân của chàng đau đớn, nhưng chàng vẫn cố gắng tiến lên căn nhà bằng băng của bà Chúa thiên thần. Trời lạnh giá cắt da thịt, chàng vẫn tiếp tục đi bước. Khi chàng suýt mất sức, cánh cửa của nhà bà Chúa thiên thần mở ra, bà nâng chàng lên. Dù kiệt sức, chàng rất vui mừng khi nhận được cây thuốc, nhưng bà Chúa thiên thần đã giơ cao một nhánh cỏ và nói:
– Con đã thể hiện tình thương với mẹ. Đây là cây thuốc cho mẹ của con.
Cùng lúc đó, bà Chúa thiên thần đưa cho chàng một cây đũa thủy tinh. Ánh sáng rực rỡ dẫn dắt chàng bay lên trên trời. Một nháy mắt, chàng đã trở về bên mẹ. Mặt Trời dần lặn sau rừng. Đêm yên bình và ánh sáng của ngàn vì sao lấp lánh. Mẹ chàng đã uống thuốc và ngủ say. Chàng ngồi bên cạnh, hạnh phúc sau một ngày dài và mệt mỏi.
Bình minh đến. Tiếng chim hót vang vọng. Mẹ chàng tỉnh dậy, tràn đầy sức sống như chưa từng bị ốm. Mẹ chàng ôm chàng, vỗ về. Hai mẹ con nhìn ra khỏi cửa sổ: rừng, núi đá và cả xứ sở tuyết phủ nơi chàng đi qua, những nơi mà những dấu máu của chàng đã biến thành những bông hoa hồng đỏ rực rỡ, toả hương thơm ngát. Người ta gọi cây hoa đó là hoa hồng, biểu tượng của tình yêu mà chàng dành cho mẹ.
Em cũng yêu mẹ như chàng trai trong câu chuyện. Em yêu những câu chuyện cổ tích mẹ kể không bao giờ chán. Em rất hạnh phúc vì luôn có mẹ bên cạnh. Và vào ngày của Mẹ, sinh nhật mẹ, em luôn tặng mẹ một bó hoa hồng đỏ và chùm điểm mười. Mẹ em lại kể cho em nghe câu chuyện về hoa hồng mà em không bao giờ cảm thấy chán.
Kể câu chuyện Cây lúa thìn
Cây lúa thìn là một câu chuyện cổ tích rất thú vị và được nhiều người yêu thích, trong đó có em.
Nhỏ lên, em thường được nghe bà kể nhiều câu chuyện dân gian. Trong số đó, 'Cây lúa thìn' là một trong những câu chuyện em rất ưa thích. Vì lúc ấy em còn nhỏ, nên em xin được kể lại như sau: Ngày xưa, ở một ngôi làng nọ, có một anh trai mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Anh được một ông phú hộ thuê làm việc. Vốn hiền lành và chăm chỉ, anh luôn làm theo những gì ông phú hộ bảo. Một ngày nọ, ông gọi anh đến nói: 'Con đã ở với tôi từ lâu, và tôi thấy con hiền lành và ngoan ngoãn nên tôi quyết định sẽ gả con gái cho con. Nhưng với điều kiện là trong ba năm tới, con phải làm việc khắp nơi'. Anh vui mừng và làm việc chăm chỉ hơn bao giờ hết.
Nhờ ba năm làm việc vất vả của anh, giờ đây ông phú hộ đã có thêm ruộng đất, nhà cửa và nhiều lúa gạo hơn. Trong suốt ba năm đó, ông đã hứa gả con gái mình cho một doanh nhân giàu có. Gần đến ngày ông nói sẽ gả con gái cho anh, ông bảo anh đi vào rừng tìm một cây lúa thìn làm quà hồi môn. Anh vào rừng tìm cây lúa thìn. Trong khi đó, ông phú hộ nghĩ trong lòng: 'Cây lúa thìn không dễ tìm, và dù tìm thấy cũng có thể bị rắn cắn, hổ vồ'. Trong rừng, anh tìm kiếm nhưng chỉ tìm được năm mươi cành lúa thìn. Hai ngày sau, anh vẫn không thể tìm thấy cây lúa thìn. Buồn chán, anh ngồi xuống bên một cây và khóc. Thấy vậy, Bụt hiện ra hỏi: 'Tại sao anh khóc'. Anh kể lại câu chuyện cho Bụt nghe, và Bụt nói: 'Chuyện đó không khó, hãy tìm cho ta một trăm cành lúa thìn và hô 'hợp nhất, hợp nhất', thì các cành lúa sẽ tự hợp lại thành một cây, còn hô 'phân ly, phân ly', thì cây sẽ tách ra'. Anh cảm ơn Bụt nhưng khi nhìn lại thì Bụt đã biến mất. Anh tìm được một trăm cành lúa thìn và mang về. Khi đến nhà, anh thấy mọi người đang tổ chức tiệc. Anh vui mừng và hô: 'Hợp nhất, hợp nhất', cây tự hợp lại trở thành một cây cao vút. Mọi người ngạc nhiên và đến xem. Ông phú hộ cũng tham gia với vẻ mặt kinh ngạc. Anh hô: 'Hợp nhất, hợp nhất', và ông phú hộ bị cây lúa thìn thu hút. Ông van xin anh, và sau khi anh đọc 'Phân ly, phân ly', ông được thả ra khỏi cây. Cuối cùng, ông phú hộ phải gả con gái cho anh. Hai vợ chồng anh sống hạnh phúc bên nhau.
Kể câu chuyện Rùa và Thỏ
Trong số các câu chuyện kể về động vật, em thích nhất câu chuyện: 'Rùa và Thỏ'. Câu chuyện diễn ra như sau:
Rùa là một con vật chậm chạp nhưng rất cần cù, hằng sáng đều tập luyện. Một ngày, đang rèn luyện giữa đường, Rùa gặp Thỏ. Thỏ, vốn tự cao tự đại, không kém, buông lời chế giễu:
- Chậm chạp như Rùa thì làm sao mà thành công được.
Rùa cảm thấy bị xúc phạm, liền đề nghị:
- Thế thì hãy thử thách đua với tôi xem sao?
Thỏ đồng ý ngay và còn chế nhạo:
- Được, tôi để bạn chạy trước nửa đường.
Rùa biết mình chậm chạp, cố gắng chạy không ngừng. Thỏ tin rằng mình chạy nhanh, chỉ cần nhìn trời, nhìn mây, đôi khi gặm vài cọng cỏ, hái hoa bắt bướm. Trong lòng nghĩ:
- Chỉ cần chạy một chút là đến nơi.
Do nghĩ như vậy, Thỏ rong chơi tự do từ đây đến đó. Cho đến khi nhớ đến cuộc thi, Thỏ mới ngẩng đầu thấy Rùa đã gần đích. Thỏ chạy hết sức nhưng không kịp. Rùa đã về đích trước. Thỏ ngượng ngùng vì thua Rùa nên bỏ chạy vào rừng để tránh.
Truyện này dạy em phải kiên nhẫn, chịu khó trong mọi công việc, kể cả những việc nhỏ nhặt.