TOP 7 bài Kể về một anh hùng, danh nhân của đất nước hay nhất, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 5 phát triển kỹ năng kể chuyện tốt, nhanh chóng hoàn thiện bài văn kể chuyện đã nghe, đã đọc tuần 2.
Mỗi câu chuyện là một bài học ý nghĩa giúp chúng ta thêm yêu đất nước hơn. Với 7 mẫu kể về anh hùng Nguyễn Viết Xuân, nữ tướng Lê Chân, Nguyễn Thị Chiên, Thánh Gióng, Nguyễn Hiền, Vua Quang Trung đại phá quân thanh, Vua Lê Thánh Tông, giúp các em chuẩn bị tốt cho tiết Kể chuyện đã nghe, đã đọc - Kể chuyện lớp 5 tuần 2 - SGK Tiếng Việt lớp 5 tập 1 trang 18.
Đề bài: Kể lại một câu chuyện mà em đã nghe hay đã đọc về một anh hùng, danh nhân của đất nước - Kể chuyện đã nghe, đã đọc tuần 2 (SGK Tiếng Việt 5 tập 1 trang 18).
Kể về anh hùng Nguyễn Viết Xuân
Trong cuộc chiến chống Mĩ giải phóng dân tộc, Bác Hồ thường nói: ''Ra đường gặp anh hùng', chắc chắn câu chuyện mà tôi kể sẽ giới thiệu đầy đủ về một nhân vật anh hùng tiêu biểu cho tuổi trẻ Việt Nam.
Anh Nguyễn Viết Xuân sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phú. Lúc 7 tuổi, anh đã phải rời nhà để đi làm cho một người thân xa để kiếm sống. Thời gian đi làm kéo dài tới mười năm liền.
Lúc 18 tuổi, từ vùng chiến trường tạm, anh đã dấn thân vào hàng ngũ quân đội để tham gia vào cuộc chiến giải phóng. Đó là vào năm 1952, anh gia nhập quân đội nhân dân và được gửi vào một trung đoàn cao xạ. Trong trận chiến tại Điện Biên Phủ, đơn vị của anh đã bắn hạ hàng chục chiếc máy bay của quân Pháp. Trong một lần bắn, anh đã đánh chặn thành công một máy bay B.24, thành công đó khiến anh cảm thấy rất hạnh phúc và tự hào. Anh nói với chỉ huy của mình: 'Em nghĩ bắn hạ máy bay B.24 rất khó, nhưng cuối cùng nó cũng phải rơi nhỉ.' Chỉ huy trả lời: 'Dũng cảm bắn thì máy bay nào của địch cũng phải rơi!'.
Trong một trận đánh, khi hàng dàn máy bay của quân địch lao vào, bom rơi như mưa. Anh Vĩ đã đứng thẳng trên hầm pháo chỉ huy, hét lớn: 'Nhắm vào máy bay lao xuống, bắn!' - Tuy nhiên, sau đó, anh đã hy sinh anh dũng.
Hình ảnh người chỉ huy gan dạ với tiếng hò dũng cảm đó đã ghi sâu trong tâm trí của Nguyễn Viết Xuân. Lấy ông làm gương mẫu, anh luôn phấn đấu và được gia nhập Đảng Lao động Việt Nam. Anh trở thành chính trị viên phó đại đội, sau đó là chính trị viên đại đội. Năm 1964, thiếu úy Nguyễn Viết Xuân đã dẫn dắt đơn vị cao xạ của mình đến miền tây Quảng Bình để bảo vệ biên giới của Tổ quốc.
Ngày 18 tháng 11 năm 1964, quân địch đã tái diễn việc máy bay vi phạm không phận miền Bắc, tại phía tây Quảng Bình, không ngừng từ đợt này sang đợt khác. Trên các khẩu pháo, các chiến sĩ dũng cảm đã bắn hạ máy bay của địch. Tiếng hô của Nguyễn Viết Xuân vang lên:
– Nhắm thẳng vào quân thù và bắn!
Hai chiếc máy bay phản lực F.100 bị hủy hoại.
Lần thứ tư, máy bay địch lại tiếp tục tấn công, anh vội chạy về trạm chỉ huy để ra lệnh chiến đấu. Ba chiếc F.100 lao tới liên tiếp phóng đạn. Đáng tiếc, anh bị trúng đạn vào đùi. Anh ngã xuống trong hầm, một chân bị thương nặng. Chiến sĩ Tình nhìn thấy, anh Xuân dặn: 'Đồng chí đừng để ai biết tôi bị thương. Hãy giúp tôi truyền lệnh chiến đấu.'
Y tá Nhu đến, thấy máu chảy nhiều từ chân trị viên, nàng vội mang băng về, nhưng anh từ chối và nói: 'Hãy chăm sóc cho những người bị thương khác trước đã...' Anh yêu cầu cắt chân để không bị vướng. Y tá băn khoăn, nhưng anh giục: 'Cứ cắt đi... và ẩn chân vào nơi kín đáo giúp tôi...'
Sau khi chân đã bị cắt, Nguyễn Viết Xuân yêu cầu lấy khăn để ngậm. Y tá đầy lòng thương xót, nổi giận nói:
– Mọi người bắn mạnh vào, trả thù cho chiến sĩ.
Các khẩu pháo bắn liên tục, tạo nên một mạng lưới lửa hủy diệt mặt địch khi chúng lao tới. Khói lửa bao phủ cả khu vực. Một chiếc F.100 khác lao đầu xuống đất, kéo theo dòng lửa dài. Đối phương kinh hãi bỏ chạy về phía đông.
Khi bầu trời trở lại yên bình, mọi người đến bên chiến sĩ, nhưng anh đã hy sinh.
Lời mệnh của liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân 'Nhắm vào kẻ thù và bắn!' đã trở thành câu hỏi bất diệt. Mệnh lệnh tấn công ấy đã luôn làm kinh hồn những kẻ lái máy bay Mỹ khi chúng xâm phạm bầu trời miền Bắc của Tổ quốc.
Kể câu chuyện về nữ tướng Lê Chân
Ngày nay, du khách từ khắp nơi đều đến tham quan thành phố Hải Phòng sẽ được chiêm ngưỡng bức tượng nữ tướng Lê Chân đặt tại vườn hoa Trung tâm thành phố. Bức tượng bằng đồng cao 6m, rất tráng lệ và kỳ vĩ. Với thanh bảo kiếm bên cạnh, Lê Chân đứng uy nghiêm hướng về biển Đông với ánh mắt sáng ngời, đầy uy dũng. Sử sách còn ghi rằng: Lê Chân là con gái của ông Lê Đạo, một thầy thuốc nhân đức nổi tiếng trong vùng. Bà quê ở làng An Biên (tức là làng Vẻn) thuộc phủ Kinh Môn, nay là huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh.
Lúc 16 tuổi, Lê Chân nổi tiếng với vẻ đẹp và tài năng, là một võ sĩ giỏi và có tinh thần lớn lao. Thái thú Giao Chỉ lúc đó là một kẻ cực kỳ tàn ác và dã man. Không thể ép bà trở thành tì thiếp, hắn đã kết tội phản nghịch cho ông Lê Đạo và ra lệnh giết ông. Lê Chân buộc phải trốn đến vùng biển An Dương để nung nấu mối thù gia tộc, quyết không khuất phục trước giặc Hán xâm lược.
Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, cùng với nhiều anh hùng nữ khác ở khắp nơi nổi lên, Lê Chân dẫn đầu một đội nghĩa binh từ làng An Biên tiến về Luy Lâu để đánh quân Đông Hán. Ngọn lửa bùng cháy, tiếng reo hò của binh sĩ cùng tiếng trống chiêng làm cho kẻ địch hoảng sợ. Chính quyền đô hộ tan rã, Thái thú Tô Định phải bỏ thành trì, cắt tóc, cạo râu và trốn đi phía Bắc. Đó là giữa tháng 3 năm 40. Lê Chân kêu gọi mọi người trẻ tuổi, di dân lập nghiệp. Một vùng đất ven biển đặt tên là An Biên được giữ gìn, đúng như tên quê hương của bà. Nông nghiệp, đánh cá và đóng thuyền ngày càng phát triển. Sau chỉ một vài năm, Lê Chân đã có hàng nghìn người dũng cảm chờ đợi thời cơ để thực hiện ý đồ lớn lao.
Chiến thắng cuộc khởi nghĩa, 65 thành trì được giải phóng, Hai Bà Trưng lên làm vua tự xưng là Trưng Vương, đặt đô ở Mê Linh. Đất nước chúng ta giành được độc lập.
Gần một trăm anh hùng nữ tướng được phong thưởng, giao phó nhiều trọng trách. Trưng Vương sai nữ tướng Thánh Thiên giữ quân ở Hợp Phố bảo vệ phía bắc, tướng Đô Dương bảo vệ Cửu Chân ở phía nam, nữ tướng Lê Chân được phong ‘Chưởng quản quyền binh nội bộ” giữ bản doanh ở Giao Chỉ, và những công việc khác.
Tháng 4 năm 42, vua nhà Hán sai Mã Viện dẫn quân sang xâm lược nước ta. Bà Trưng và các tướng lãnh dẫn quân đối địch. Nhiều trận chiến lớn diễn ra ở Lãng Bạc, cửa Khê, Hát Môn. Tháng 5 năm 43, Hai Bà Trưng thất bại và buộc phải tự vẫn xuống sông Hát Giang. Nhiều nữ tướng của Hai Bà Trưng đã hy sinh dũng cảm. Nữ tướng Lê Chân đã lấp suối, ngăn sông, chặn đánh dũng mãnh của quân thủy binh địch. Vào cuối năm 43, Lê Chân anh dũng hy sinh tại trận vùng Lạt Sơn, Kim Bảng (nay thuộc tỉnh Hà Nam) khẳng định phong cách anh hùng của phụ nữ Việt Nam.
Để tưởng nhớ công lao to lớn của nữ anh hùng Lê Chân, nhân dân An Biên đã xây dựng đền thờ mang tên đền Nghè, một trong những di tích lịch sử trang nghiêm và cổ kính của thành phố Cửa Biển.
Kể chuyện về nữ tướng Nguyễn Thị Chiên
Việt Nam là quê hương của nhiều anh hùng, trong đó có nhiều nữ anh hùng xuất sắc. Trong số họ, bà Nguyễn Thị Chiên là người để lại ấn tượng sâu sắc nhất với em.
Bà Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930 tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trong phong trào du kích chống Pháp, bà giữ chức bí thư và chỉ huy một trung đội du kích. Năm 1950, bà tiêu diệt một tiểu đội địch bằng mìn. Bị bắt và tra tấn dã man nhưng bà vẫn kiên quyết không khai. Sau khi được thả, bà tiếp tục hoạt động ở quê nhà, lãnh đạo đội du kích và khai hoang, sản xuất lương thực.
Năm 1951, bà bắt một tiểu đội địch ngay giữa chợ và thu được bảy khẩu súng. Sau đó, bà bắt tên sĩ quan Pháp chỉ huy trong một trận càn quét ở xã. Năm 1952, bà được tặng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và Huân chương Quân công hạng Ba, được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang.
Bà Nguyễn Thị Chiên là một nữ anh hùng được kính trọng. Em sẽ học tập và noi theo gương bà để cống hiến cho tổ quốc.
Kể chuyện về anh hùng Thánh Gióng
Ngày xưa, ở làng Gióng có một thiếu niên kỳ lạ, đã năm tuổi mà vẫn không biết đi, không biết nói, chỉ biết nằm yên trên giường.
Giặc Ân từ phương Bắc tràn sang xâm lược đất nước. Vua sai sứ giả đi xin người tài giỏi giúp đỡ. Khi nghe thấy tin vua, thiếu niên lập tức biết nói và yêu cầu mẹ gọi sứ giả tới. Sau đó, cậu yêu cầu đúc một con ngựa sắt, một áo giáp sắt và một chiếc nón sắt để đánh bại giặc.
Từ khi gặp sứ giả, thiếu niên phát triển vượt bậc. Ăn uống nhiều, quần áo vừa may xong đã quá chật. Mẹ cậu không đủ thức ăn, cả làng phải góp sức để nuôi cậu.
Khi các vật phẩm được mang đến, thiếu niên trở thành một chiến binh mạnh mẽ. Anh mặc áo giáp sắt, đội nón sắt, cầm roi sắt, cưỡi lên ngựa sắt. Ngựa sắt hí vang, phun lửa, lao ra trận. Anh dùng roi sắt đánh tan kẻ thù. Dù roi sắt bị gãy, anh vẫn tiếp tục chiến đấu.
Sau khi đánh bại giặc, thiếu niên cởi bỏ áo giáp sắt, nón sắt và bỏ lại dưới chân núi. Anh nhìn lại quê hương một lần cuối rồi cưỡi ngựa bay lên trời. Người dân ghi nhớ công ơn của anh và tôn kính anh là Thánh Gióng.
Kể câu chuyện về người anh hùng Nguyễn Hiền
Bậc cha già thường dạy rằng 'Có chí thì nên'. Những ai có ý chí và vượt qua gian khó sẽ đạt được thành công. Nguyễn Hiền trong câu chuyện 'Ông Trạng thả diều' là một ví dụ điển hình. Câu chuyện diễn ra như sau:
Vào thời vua Trần Thái Tông, một gia đình nghèo sinh được một cậu con trai, được đặt tên là Nguyễn Hiền. Chú bé có đam mê với việc thả diều. Ngay từ nhỏ, chú đã biết làm diều để chơi.
Khi lên sáu tuổi, chú bắt đầu học với một ông thầy trong làng. Ông thầy rất ngạc nhiên vì khả năng học của chú, chú hiểu mọi thứ một cách nhanh chóng và có trí nhớ xuất sắc. Một lần, chú thuộc hết hai mươi trang sách rồi vẫn còn thời gian để chơi diều.
Sau một thời gian, vì hoàn cảnh gia đình quá nghèo, chú phải từ bỏ việc học. Ban ngày, trong lúc chăn trâu, dù thời tiết có xấu đi chăng nữa, chú vẫn đứng ngoài lớp để nghe giảng. Buổi tối, chú chờ đợi bạn học thuộc bài mới để mượn vở về học. Khi học, chú cũng nỗ lực như ai, sử dụng lưng trâu, nền cát làm sách, bút là ngón tay hoặc mảnh gạch vụn, đèn là vỏ trứng với đom đóm bên trong. Dù cuộc sống bận rộn, việc học, nhưng cánh diều của chú vẫn luôn bay cao, tiếng sáo vẫn vang vọng trên bầu trời. Mỗi khi có kì thi, chú viết bài trên lá chuối khô và nhờ bạn xin thầy chấm. Bài thi của chú luôn được viết tốt và văn hay, vượt trội so với các bạn học.
Sau vài năm, vua tổ chức kỳ thi. Cậu bé thả diều lên khiến mọi người kinh ngạc, và cậu đỗ Trạng nguyên. Trạng Nguyên chỉ mới mười ba tuổi vào thời điểm đó, trở thành Trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử nước ta.
Ông Trạng Nguyễn Hiền vẫn là một tấm gương sáng cho thiếu niên nước ta học tập. Dù với hoàn cảnh khó khăn, ông vẫn rèn luyện bản thân và trở thành Trạng nguyên. Tài năng của ông đã bay cao như những cánh diều mà ông từng thả lên bầu trời.
Vua Quang Trung đại thắng quân Thanh
Khi nghe tin quân Thanh xâm chiếm Thăng Long, các tướng lãnh Bắc Bình Vương đã họp bàn về việc tiến quân đánh giặc. Họ đều đồng tình rằng cần phải tiêu diệt giặc để bảo vệ dân chúng và danh dự quốc gia.
Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân 1788, Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng đế với tên là Quang Trung.
Vua Quang Trung ngay lập tức ra quân tiến về phía Bắc. Đến Nghệ An, trong vòng 10 ngày, ông tiếp nhận thêm binh lính, tổng cộng đạt 10 vạn quân và hơn 100 con voi.
Ngày 20 tháng Chạp, khi đến núi Tam Điệp, Ngô Văn Sở đã ra đi vĩnh viễn. Vua Quang Trung an ủi mọi người và sau đó ra lệnh cho tướng sĩ chuẩn bị ăn mừng Tết Nguyên Đán. Đến ngày 30 tháng Chạp, quân đội sẽ lên đường, và vào ngày mùng 7 tháng Giêng, Thăng Long sẽ tổ chức tiệc mừng lễ trọng đại.
Vua Quang Trung phân chia quân đại đội thành hai đạo chính:
- Hai đạo đi theo đường biển, đến sông Lục Đầu để tiếp nhận quân hữu và cản địch Thanh.
- Hai đạo di chuyển qua đường núi để hỗ trợ mặt tả và tấn công vào phía tây của quân địch.
- Đội trung quân dưới sự chỉ huy của vua Quang Trung tiến về phía Thăng Long theo con đường chính trực.
Vượt qua sông Giản Thủy (biên giới giữa Ninh Bình và Hà Nam), quân của vua Quang Trung tiến công hướng đến Phú Xuyên, bắt sống toàn bộ quân thám hiểm của địch đóng quân ở đó, không để một ai trốn thoát để báo tin cho các trạm gần kề.
Nửa đêm mùng 3 Tết năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung bao vây đồn Hà Hồi và ra lệnh đầu hàng. Quân Thanh sợ hãi kêu giao hàng, cả quân lương và vũ khí.
Sáng sớm mùng 5 Tết, vua Quang Trung ra lệnh tấn công đồn Ngọc Hồi của quân Thanh bằng cách phóng ra đạn như mưa. Vua Quang Trung sai người dùng ván gỗ lót rơm để tạo thành một cái thang lớn, mỗi 20 người cầm một mảnh ván, với những người cầm vũ khí đi sau. Khi đến gần đồn, quân ta đặt ván gỗ xuống và rút dao tấn công. Quân Thanh không thể chống cự, bỏ chạy vào hỗn loạn. Quân ta tận dụng thời cơ tấn công mạnh mẽ, chiếm được các đồn. Xác của quân Thanh nằm rải rác khắp nơi, các tướng quân Thanh như Hứa Thế Hanh đều tử vong.
Trong khi vua Quang Trung đang chiến đấu quyết liệt tại Ngọc Hồi, Đô đốc Long đã dẫn quân tả hướng tấn công đồn Khương Thượng, gần khu vực Đống Đa. Sầm Nghi Đống không thể chống lại và đã tự sát. Đô đốc Long tiếp tục tiến công hướng đến Thăng Long.
Tôn Sĩ Nghị vứt bỏ mọi sự quan trọng để vượt qua dòng sông để chạy vào kinh đô Bắc. Quân lính vội vã tranh nhau đi qua cầu, cầu bị sụp, nhiều người chết đuối nổi đầy sông. Đạo quân Vân Nam và Quý Châu đóng quân ở vùng Sơn Tây cũng phải nhanh chóng rút lui về phía đất mẹ.
Buổi trưa đó, vua Quang Trung mặc bộ áo ngự bào phủ đầy bụi súng, điềm tĩnh bước vào Thăng Long giữa tiếng hoan hô vang vọng của binh lính và nhân dân.
Vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497)
Lê Thánh Tông là con của vua Lê Thái Tông và phi Ngô Thị Ngọc Dao.
Ông trị vì đất nước từ khi mới 18 tuổi, cai trị trong suốt 38 năm và thay đổi niên hiệu hai lần: Quang Thuận và Hồng Đức.
Lê Thánh Tông, nhà vua cao quý và thông minh, đã đưa nước Đại Việt lên đỉnh cao thịnh vượng, hòa bình. Dân chúng được hưởng thụ cuộc sống ấm no, hạnh phúc suốt nhiều năm liền:
'Cả nam và bắc đều tràn đầy hạnh phúc
Là một bài ca về sự thịnh vượng.
(Năm Canh)
Vua chia đất nước thành 12 phần, được gọi là 12 thừa tuyên; mỗi thừa tuyên bao gồm nhiều phủ, huyện, châu, tổng, xã. Quân đội và quốc phòng được chú trọng đặc biệt:
Hải quân được nâng cấp với những chiến thuyền mới, đội ngũ bộ binh được tăng cường với nhiều voi và ngựa chiến. Quân đội được tổ chức thành 5 phủ đô đốc và 1 đạo: ngoại và nội. Quân đội cảnh giác và tập trung vào cả nhiệm vụ quân sự và canh tác nông nghiệp. Mỗi năm đều có diễn tập quân sự trên quy mô lớn.
Dưới thời vua Lê Thánh Tông, việc học hành được coi trọng và khuyến khích mở rộng kiến thức.
Các kỳ thi Tiến sĩ được tổ chức kỹ lưỡng, thu hút nhiều tài năng ưu tú.
Tên tuổi của vua Lê Thánh Tông gắn liền với Bộ luật Hồng Đức. Ông nói: 'Pháp luật là cơ sở công bằng của Nhà nước, chúng ta cần phải tuân thủ'. Vào năm 1464, vua ban hành lệnh công bằng để vinh danh anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, một con người 'tâm hồn sáng ngời như vì sao Khuê'.
Vua Lê Thánh Tông là một nhà vua rất hiếu học và chăm chỉ:
'Ngày làm công việc, vẫn giữ thói quen đọc sách,
Đêm về, dù đã mệt, vẫn không quên việc học.'
Vua để lại một di sản văn chương phong phú bằng chữ Hán và chữ Nôm. Ông đã thành lập Hội thơ Tao Đàn, với 28 thi sĩ, được tôn vinh là 'nhị thập bát tú' (28 ngôi sao) dưới sự lãnh đạo của vua, tự gọi mình là 'Tao Đàn nguyên súy'.
Lê Thánh Tông được coi là một vị vua vĩ đại.
Trong bài diễn thơ 'Lịch sử nước ta', Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
'Trong dòng dõi các vị vua, Lê Thánh Tông là biểu tượng của lòng hiền hậu,
Mang lại sự giàu có và an lành cho đất nước'.