TOP 7 bài Kể về ngày hội quê em SIÊU HẤP DẪN, kèm theo dàn ý chi tiết. Điều này sẽ giúp các em học sinh lớp 5 mở rộng vốn từ vựng, nắm bắt nhanh chóng những đặc điểm nổi bật của phong cảnh
Với 7 bài văn kể về lễ hội Phủ Dầy, lễ hội Đền Hùng, lễ hội đua thuyền, lễ hội chùa Hương,... Một lễ hội thường gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Các em cần mô tả diễn biến của lễ hội theo trình tự thời gian để bài văn trở nên sinh động hơn. Mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây:
Dàn ý kể về ngày hội quê em
I. Bắt đầu
- Trình bày sơ lược về lễ hội để thể hiện vẻ đẹp của truyền thống hoặc tinh thần phấn khích của thời đại.
II. Nội dung chính:
- Tả các đặc điểm của lễ hội theo thứ tự thời gian và theo cấu trúc hợp lý.
– Phân tích về thời gian, địa điểm, và nguồn gốc của lễ hội:+ Mô tả chi tiết thời gian cụ thể (kết hợp với ý nghĩa lịch sử).
- Mô tả địa điểm tổ chức lễ hội.
- Phân tích nguồn gốc và lý do tổ chức lễ hội (ví dụ: vinh danh nét đẹp truyền thống hoặc phản ánh tinh thần hiện đại).
– Giới thiệu các công việc chuẩn bị cho lễ hội:
- Lên kế hoạch cho các tiết mục biểu diễn.
- Trang trí và chuẩn bị tiến trình lễ hội (nếu là lễ hội truyền thống, bao gồm việc chuẩn bị rước kiệu, trang trí kiệu, lựa chọn người tham gia…).
- Chuẩn bị về địa điểm tổ chức…
– Miêu tả diễn biến của lễ hội theo thứ tự thời gian. Thông thường, lễ hội được chia thành hai phần: phần lễ và phần hội.
- Đối với lễ hội vinh danh nét đẹp truyền thống, bao gồm: rước kiệu lễ Phật, dâng hương, các hoạt động biểu diễn dân gian, các nhóm khách từ xa.
- Đối với lễ hội thể hiện tinh thần thời đại: giới thiệu lý do tổ chức; các diễn giả thể hiện ý nghĩa, cảm xúc về lễ hội, các chương trình biểu diễn (như biểu diễn đồng diễn, diễu hành, ca nhạc, trò chơi vui nhộn,…)
– Đưa ra nhận định về ý nghĩa của lễ hội.
III. Tóm tắt:
- Tổng kết lại ý nghĩa của lễ hội.
Miêu tả ngắn gọn về lễ hội quê em
Vào đầu tháng ba âm lịch, khắp nơi trên quê em đều tưng bừng chuẩn bị tham dự lễ hội Phủ Dầy. Theo như câu chuyện mà bố kể: hàng năm, ngày mồng 6 tháng 3 âm lịch được ghi nhớ là ngày tưởng nhớ Công chúa Liễu Hạnh tại làng Kim Thái, Vân Cát, Vụ Bản, cách quê em khoảng 10 cây số.
Sáng nay, gia đình em dậy sớm, thưởng thức bữa sáng ngắn gọn để kịp chuẩn bị đi dự lễ hội. Mọi người mặc đồ đẹp, cẩn thận, em và em bé Bông thậm chí còn ăn mặc mới nhất. Khi ra ngoài đường, em đã thấy các nhóm người đi lại, tươi cười, vui vẻ. Gia đình em cũng tham gia để tận hưởng không khí lễ hội vui vẻ.
Khoảng 8 giờ, chúng em đến Phủ Dầy. Ôi trời ơi! Mọi con đường dẫn vào đền đều đông đúc người. Xe ô tô, xe máy kêu inh ỏi, nhưng giao thông vẫn tắc nghẽn. Đôi khi, mẹ em phải bế bé Bông lên cao để vượt qua đám đông, còn em phải nắm chặt tay bố để không bị lạc.
Khi đến gần ngôi đền chính, chúng em bắt gặp những người mặc đồ lòe loẹt, vui vẻ, nhảy múa. Ngôi đền có kiến trúc hùng vĩ, với ba cánh chuông, và khi bước vào, chúng em cảm nhận sự uy nghiêm và lộng lẫy của những đồ thờ vàng óng ánh, ẩn hiện trong khói hương thơm.
Sau khi thăm khu đền chính, bố em dẫn chúng em đến thăm lăng mộ của bà Chúa. Truyền thuyết kể rằng trước đây, bà đã mơ thấy một hoàng tử được sinh ra, và vì thế, nhà vua đã cho xây dựng một lăng mộ lớn và đẹp bằng đá ngũ sắc và gỗ quý từ Huế.
Trước khi về, chúng em còn được ghé vào làng Kim Thái, tham quan ngôi đền nhỏ và cây chuối thần, nơi mà vài năm trước, cây chuối đã sinh ra từ 120 đến 150 bông. Trên đường đi qua chợ, bố em đã mua cho hai anh em mỗi người một cái trống ếch, và khi đánh, âm thanh vang lên rất vui tai.
Khi trở về, sau một đoạn đường xa, em quay đầu lại ngắm cảnh Phủ Dầy, vẻ hùng vĩ và đẹp đẽ của nó đã khiến em say mê. Đã từ lâu, những người thợ nề, thợ mộc đã đóng góp xây dựng nên một di tích lịch sử về bà Chúa Liễu Hạnh, trở thành biểu tượng của quê hương Nam Định, mà nhiều người đi xa vẫn thường nhớ đến.
Bài viết về ngày hội quê em - Mẫu 1
Mùa xuân là thời điểm sôi động, rộn ràng nhất trong năm. Không khí tươi vui ấy chủ yếu nhờ vào những lễ hội xuân náo nhiệt, ồn ào mà không kém phần trang trọng. Vào ngày mong đợi, mùng sáu Tết, làng quê tôi tổ chức lễ hội truyền thống.
Lễ hội làng được tổ chức để tưởng nhớ công lao của các vị tiền bối đã xây dựng và lập làng. Sáng sớm, mọi người mặc áo mới, sơ vin để đón đoàn rước rồng. Trên đường đi, mỗi gia đình đều lập một bàn thờ nhỏ trước cửa nhà, để thắp nhang và đợi đoàn rước qua.
'Tùng tùng tùng cắc, tùng tùng tùng tùng...' tiếng trống xa xa vọng lên, đoàn rước đã đến gần. Đầu tiên là con rồng giả được đội múa rồng của làng tạo ra, uốn éo và vẽ nét múa đẹp mắt, rồng giả tỏ ra vô cùng oai vệ. Tiếp theo là đoàn trống chiêng ồn ào, náo nhiệt, đi trước dẫn đường cho đoàn rước kiệu của làng.
Bốn người bảy bước nhịp nhàng, chiếc kiệu được trang hoàng tinh tế với đường nét sơn vàng rực rỡ, trang trọng. Đằng sau kiệu là hai lọng màu đỏ phôi pha nổi bật. Ngựa gỗ cao to theo sau trông như thật. Tiếp theo là đoàn người mang theo bát bảo, cờ ngũ sắc lung linh, tươi sáng.
Tiếp sau là đại diện các tầng lớp trong xã hội: hội người cao tuổi, hội phụ nữ, hội nông dân, đội thiếu nhi. Mỗi nhóm mang trên mình trang phục đặc trưng: áo tứ thân, áo the khăn xếp, áo dài,... tất cả đều rực rỡ sắc màu. Cuối cùng, mọi tầng lớp nhân dân, từ già đến trẻ, từ nam đến nữ, đều tham gia theo đoàn để cầu may mắn trong năm mới.
Đoàn rước dần xa, nhưng không khí vẫn tươi vui, người dân tự hào và sung sướng. Buổi sáng là thời điểm của 'lễ', còn buổi chiều là thời điểm của 'hội'. Sự đông đúc và vui vẻ của hội khiến người ta bị cuốn hút.
Các gian hàng quà lưu niệm ven đường thu hút nhiều người, chủ yếu là người dân trong xã. Họ đến để bán hàng, hy vọng tạo may mắn cho năm mới. Tiếp theo là khu vực trò chơi dân gian. Bên trái là cờ người, bên phải là đấu vật và sang trái là nấu cơm niêu đất.
Trò nấu cơm niêu đất rất lạ. Một người nam và một người nữ tham gia, người nam gánh nồi cơm chạy trong khi người nữ đốt lửa phía dưới. Họ chỉ dừng lại khi cơm chín. Ngoài ra còn có thi kéo co, thi ném tiêu, thi bắt dê khi bịt mắt,... và nhiều trò chơi hiện đại khác như đu quay, chạy tàu điện,...
Sau khi kết thúc buổi lễ hội, mọi người rời về với tâm trạng hân hoan và phấn khởi. Lễ hội làng tôi là một phần của văn hóa truyền thống dân tộc, mong muốn rằng tục lệ này sẽ được giữ gìn và kế thừa mãi mãi.
Bài văn kể về ngày hội quê em - Mẫu 2
Mỗi vùng quê, mỗi miền đất đều có những phong tục riêng. Và những ngày hội là thước đo nét đặc trưng của từng vùng. Ở quê em cũng thế, mỗi năm đến dịp Tết là lại có ngày hội với các trò chơi dân gian để mọi người cùng vui vẻ và giải trí.
Trò chơi dân gian diễn ra vào ngày mùng 3 Tết hàng năm, khi mùa xuân đang khắc khoải khắp nơi. Không khí tươi mới, phấn khởi luôn thấm đẫm trong từng nụ cười. Những trò chơi được tổ chức tại sân chơi của làng, một sân đất rộng lớn đủ cho mọi người tham gia nhiều trò chơi: vật cản, chuyền bóng, ném pháo đất, đấu vật. Mỗi trò đều mang nét đặc trưng riêng, tạo nên không khí vui vẻ và phấn khích nhất.
Đây là ngày lễ lớn nhất trong năm của làng quê em. Có thể nói đây là ngày mà mọi người ghi nhớ và trân trọng nhất. Nó mang lại cảm giác mới mẻ và đồng thời gợi nhớ những kỷ niệm xưa cũ. Người ta luôn cảm nhận được điều này khi tham gia các trò chơi dân gian trong ngày lễ hội.
Những đứa trẻ chúng tôi chỉ biết rất thích thú khi nhìn người lớn chơi và reo hò vui vẻ. Dù thắng hay thua, mọi người luôn giữ được niềm vui và nụ cười trên môi. Bởi vì ngày Tết, tổ chức lễ hội là để gìn giữ và phát huy nét đẹp truyền thống đối với thế hệ trẻ hơn.
Mọi trò chơi đều thu hút sự chú ý của người xem, tuy nhiên trò chơi đánh đu luôn là trò chơi lớn nhất. Ai đu cao hơn sẽ chiến thắng. Đôi khi, có cảm giác như người đang sắp rơi khỏi dây vì đu lên quá cao. Trò chơi ném pháo đất với âm thanh lớn cũng khiến nhiều người xem thích thú.
Tất cả người chơi đều cố gắng hết mình, không chỉ để giành chiến thắng mà còn để mang lại tiếng cười và dư âm thú vị cho người xem. Sân chơi của làng trở nên đông đúc hơn trong tiết trời se lạnh của những ngày Tết. Mọi người đều háo hức và vui mừng khi được tham gia vào không khí vui tươi và an lành như thế này.
Sau khi kết thúc lễ hội, mọi người cùng chúc nhau những lời chúc tốt đẹp và trao nhau những phong bao lì xì đầy may mắn.
Bài văn kể về ngày hội quê em - Mẫu 3
Mùa xuân đã đến với những cơn mưa nhẹ nhàng, những tia nắng ấm áp, cùng với những cành đào, cành mai rực rỡ, và không khí lễ hội phấn khích trên khắp đất nước. Năm nay, thủ đô Hà Nội Hà Nội tổ chức lễ hội đua thuyền trên Hồ Tây. Đây là dịp để những người con Hà Nội như tôi được chứng kiến cảnh tượng náo nhiệt hiếm có này.
Lễ hội diễn ra vào ngày mùng 9 tháng Giêng âm lịch, nhằm mang lại không khí xuân vui tươi và tinh thần đoàn kết cộng đồng. Với những vùng sông nước, lễ hội đua thuyền còn có ý nghĩa mở đầu cho một năm mưa thuận, gió hòa. Ngay từ sáng sớm, dân và du khách đã kéo về đông đúc. Lễ khai mạc diễn ra với nhiều tiết mục nghệ thuật đặc sắc và tiếng trống khai xuân rộn ràng. Trên sông, hai mươi bảy chiếc thuyền rồng được trang trí viền vàng đỏ hoặc vàng xanh xen kẽ rực rỡ. Họ còn cắm lá cờ bảy sắc ở đuôi thuyền. Mỗi thuyền mặc một bộ đồng phục khác nhau và khoác chiếc áo phao màu cam bên ngoài. Tham gia đua thuyền, mỗi người vui vẻ, sẵn sàng chèo lái. Khi tiếng trống vang lên, cuộc đua bắt đầu, người tham gia vung chèo. Mái chèo quẫy tung mặt nước. Hồ Tây chẳng còn sóng gợn. Không khí một lúc một căng thẳng. Ven hồ, khán giả hò reo cổ vũ. Cây liễu, hoa sữa hay bằng lăng ở đó cũng ngả mình theo gió như biết trận đua đang diễn ra tưng bừng. Gió trên hồ khá lớn, làm lá cờ tung bay. Tiếng trống vang lên không ngừng, tạo thêm sức mạnh cho các đội đua thuyền. Em cũng hò vang 'Cố lên...! Cố lên...' như mọi người. Thuyền trôi nhanh trên mặt hồ như một chú cá vàng đang bơi. Làn sương mù ngày xuân chẳng cản bước được những chiếc thuyền. Không mấy chốc, một chiếc thuyền đã về đích, vượt qua chiếc băng đỏ bắc ngang trên mặt hồ. Mọi người hò hét chúc mừng đội đua đã vô địch.
Em cảm thấy lễ hội đua thuyền hôm đó thật sự vui vẻ, hào hứng và sôi động. Quả thật, lễ hội truyền thống luôn để lại cho chúng em những kỷ niệm đáng nhớ. Em hi vọng mùa xuân năm sau sẽ được tham gia lại lễ hội này.
Bài văn kể về ngày hội quê em - Mẫu 4
Ở quê hương của em có một lễ hội lớn, đó là Lễ Hội Đền Hùng Đền Hùng ( Giỗ tổ Hùng Vương) được tổ chức vào ngày mồng Mười tháng Ba âm lịch hàng năm. Mọi người đều biết câu ca dao:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba.”
Lễ hội Đền Hùng hội Đền Hùng là một trong những dịp quan trọng nhất trong năm, là cơ hội để tôn vinh và nhớ đến công lao của các vị vua Hùng đã xây dựng nên đất nước. Mỗi năm, người dân Việt Nam lại cùng nhau hướng về Phú Thọ để tham dự lễ hội này.
Lễ hội diễn ra từ ngày mồng 8 đến ngày 11 tháng 3 âm lịch, với nhiều hoạt động lễ nghi trang trọng như dâng hương, dâng lễ từ các địa phương khác nhau để tưởng nhớ 18 vị vua Hùng. Cuộc thi rước kiệu cũng là một phần không thể thiếu của lễ hội, khi mỗi làng đều cố gắng tổ chức những màn rước kiệu ấn tượng nhất để gây ấn tượng với các vị vua Hùng.
Bên cạnh những nghi lễ trang trọng, lễ hội còn có không ít trò chơi dân gian như ném còn, đua gà, đấu vật, chơi đu... Nhưng điều khiến em thích thú nhất là những giai điệu truyền thống của đất Phú Thọ, đặc biệt là hát Xoan, một di sản văn hóa đặc biệt của quê hương.
Lễ hội Đền Hùng hội Đền Hùng Đền Hùng không chỉ là nơi để thể hiện lòng kính trọng và tôn vinh đối với các vị vua Hùng mà còn là dịp để mỗi người Việt nhớ về nguồn cội và truyền thống của dân tộc.
Bài văn mô tả về ngày hội quê em - Mẫu 5
Ước mơ mãi mãi, năm nay tôi được cha mẹ cho đi hành hương về nơi gốc nguồn thăm đền Hùng vào ngày 10 tháng 3 âm lịch.
Băng qua cầu Bạch Hạc, ở vùng đất Vĩnh Phú, tôi đã nhìn thấy ngọn núi Hùng hiên ngang tựa vào bầu trời. Xung quanh là dãy núi tráng lệ, theo truyền thuyết chúng là đàn voi quy về đất Tổ, nhưng có một con lại bị chém vào đuôi, để lại dấu vết đến nay vẫn còn.
Đúng là một ngày hội: các ông, các bà mặc áo dài, các anh chị mặc quần áo có nẹp đỏ cổ kính theo đoàn rước kiệu về đền chính. Trời tháng ba mát mẻ, ánh dương chiếu xuống rừng cây um tùm. Rừng sơn, rừng cọ sum suê, xanh mướt như ngọn núi Nghĩa Lĩnh vẫn trở nên uy nghi một cách khác biệt.
Mỗi đoàn rước đi theo kiệu đều là những người mặc áo sơn hào hùng, mang theo chiêng, trống vang khắp nơi. Cổng đền Hùng ở chân núi về phía tây. Để đến các đền phải trèo lên rất cao, với tổng cộng 495 bậc đá ong, uốn khúc theo triền núi. Đền Hùng có một số bậc thang. Ở phía dưới là đền Giếng với hai giếng nước được cho là giếng tắm của công chúa Mị Nương, con gái của vua Hùng Vương thứ 18.
Leo lên cao hơn là đến đền Hạ, theo giả thuyết của cô, đây là nơi mẹ Âu Cơ sinh ra trăm người con, chia nhau ra khắp các vùng. Người con lớn nhất ở lại làm vua Hùng. Lên cao thêm gần 200 bậc là đến đền Trung. Theo truyền thuyết, đây là nơi vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng hội ý bàn việc quan trọng của nước. Tới đền Hùng Vương thứ 6 còn thờ Phù Đổng nữa. Thêm 100 bậc nữa là ngọn núi Hùng nơi thờ trời đất.
Ngày giỗ Tổ vào mùa xuân, thời tiết đẹp nhất trong năm nên không khí lễ hội thực sự hứng khởi. Các con người Việt Nam đi thăm đất Tổ để ghi nhớ nguồn gốc, và dâng lên tổ tiên lòng thành kính của mình bằng nén hương, lễ vật theo truyền thống. Mọi người, bất kể theo đạo Phật, đạo Thiên Chúa, người Mường hay người Kinh, người Thổ... đều về đây với một tâm niệm về gốc rễ của dân tộc mình.
Vì thế, sau khi Bộ trưởng Văn hóa nói về ý nghĩa của gốc nguồn dân tộc là một cuộc vui mở ra nhiều hình, nhiều kiểu. Thanh niên nam nữ vui vẻ với việc chày gõ xuống cái máng gỗ nhịp nhàng, sau đó múa lân, múa sư tử, nhảy sạp. Mọi người đều có gương mặt tươi cười, hạnh phúc và những câu chuyện thường kể về thời kỳ “xã tắc vững bền, vua tôi hòa thuận”, còn nhớ bao nhiêu câu chuyện thú vị khác không thể nào kể hết.
Như câu chuyện dưới chân núi làng Thậm Thình có một truyền thuyết được viết lại bằng thơ mà tôi chỉ thuộc lòng mấy câu:
“Vua Hùng một sớm ra rừng săn
Bình minh nắng ấm nơi chốn này.
Dân chúng dâng một quả xôi đầy
Bánh chưng mấy cặp, bánh giầy mấy đôi.”
Khi buổi tối buông xuống, pháo hoa rực rỡ vẽ lên bầu trời, tuy nhiên niềm vui vẫn chưa kết thúc. Khi trở về, lòng tôi vẫn mãi nhớ một chuyến đi thú vị. Tôi đã được trở về với đất Tổ đã tồn tại hàng ngàn năm và tự hào về nguồn gốc của mình. Ở đây, dù chủ yếu là những đồi núi, nhưng cũng có những cánh đồng lúa bát ngát và dòng sông mênh mông... Núi non vươn cao, con đường uốn khúc quanh co, xứng đáng là một thủ đô của thời xa xưa.
Bài văn kể về ngày hội quê tôi - Mẫu 6
Lễ hội chùa Hương đã tồn tại từ lâu đời. Mỗi năm, vào ngày mùng sáu tháng Giêng sau Tết Nguyên Đán là lễ hội bắt đầu và kéo dài suốt mùa xuân. Du khách hành hương từ khắp nơi, cả trong nước và ngoài nước, đổ về đây không chỉ để cầu mong một năm mới tốt lành mà còn để tận hưởng khung cảnh thần tiên của Hương Sơn.
Thắng cảnh Hương Sơn thuộc huyện Mỹ Đức, Hà Nội cách trung tâm khoảng 70 km về phía Tây Nam. Đi xe qua thị xã Hà Đông, Vân Đình, rồi đến bến Đục thì dừng. Bắt đầu từ đây là vùng đất của Hương Sơn. Du khách xuống đò, trôi theo dòng suối Yến trong xanh chảy qua cánh đồng lúa mơn mởn. Phía trước là dãy núi trùng điệp màu tím, ẩn hiện trong mây trắng, cảnh đẹp tuyệt vời!
Có thể nói quần thể Hương Sơn là sự kết hợp hoàn hảo giữa sức sáng tạo của Tạo hóa với bàn tay tài ba, khéo léo của con người. Những ngôi chùa được xây dựng rải rác trên triền núi đá vôi, hiện lên dưới bóng râm của rừng cây xanh mát. Từ chân núi leo dốc lên hàng nghìn bậc đá gập ghềnh, khách hành hương sẽ theo dõi nhịp nhàng từ chùa Ngoại, rồi vào chùa Trong, lên chùa Giải Oan, chùa Thiên Trù với động Hinh Bồng, động Hương Tích…
Mỗi chùa đều toát lên vẻ cổ kính, uy nghi, với đèn nến lung linh giữa làn khói hương mờ mờ, tạo nên không khí linh thiêng, huyền bí. Mỗi người đến chùa Hương mang theo một tâm trạng, một ước nguyện riêng tư, nhưng điều chung nhất là cảm giác giải thoát khỏi những lo toan hằng ngày của cuộc sống, cả tâm hồn và thân xác đều nhẹ nhõm, sảng khoái.
Trên con đường dốc đá, dòng người đi lên và đi xuống, già, trẻ, gái, trai đều có mặt, đến từ mọi miền quê. Mỗi khi gặp nhau, họ chào nhau bằng câu 'Nam mô A di đà Phật'. Nhiều người cao tuổi mặc áo mỏ quạ, đeo tràng hạt, tay cầm cây gậy, bước đi vững chắc không kém các thanh niên. Tiếng 'Nam mô' vang vọng suốt con đường.
Hương Sơn có nhiều hang động nhưng động Hương Tích là lớn nhất, đặc biệt nhất. Khi đến đây, du khách nhìn xung quanh và cảm thấy mọi mệt mỏi tan biến, trong lòng bừng sáng niềm vui lạ thường. Núi non vươn cao, mây trời nổi lên. Trên triền núi, dưới thung lũng, hoa mơ trắng như tuyết nở rộ, hương thơm ngát hồn bay trong gió xuân.
Tiếng chim ríu rít, tiếng suối róc rách vang vọng khắp nơi. Đây thực sự là một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời. Đứng trước cửa động, du khách thảnh thơi hít thở không khí trong lành, thơm ngát trước khi bước vào. Động Hương Tích được ca ngợi là “Nam thiên đệ nhất động” bởi chúa Trịnh Sâm. Nhìn từ bên ngoài, cửa động giống như miệng một con rồng lớn đang mở rộng ra.
Động sâu vào lòng núi, đáy động rộng lớn, có thể chứa hàng trăm người. Ánh đèn, ánh nến chiếu sáng rực rỡ. Những tảng đá, nhũ đá đa dạng hình dáng, lấp lánh đủ màu sắc. Có Hòn cậu, Hòn cô, Nong tằm, Né kén, Cây bạc, Cây vàng, Cót thóc… Khách hành hương muốn cầu phúc, cầu lộc, cầu duyên… chỉ cần thắp nhang và thành tâm khấn vái Phật, ước mong sẽ được như ý.
Tham gia hành trình tới chùa Hương, bạn cần dành ít nhất hai ngày để khám phá hết các ngôi chùa. Ngồi trong hang Hinh Bồng, lắng nghe tiếng gió thổi như nhạc du dương, ta sẽ trải nghiệm không gian mơ màng của cõi trời. Trên đỉnh núi có tảng đá lớn phẳng phiu, được truyền kể là bàn cờ tiên. Hàng năm, các vị Tiên ông lại xuống thế gian, đọ tài cao thấp ở đó.
Chùa Hương đan xen với vô số huyền thoại, làm tăng thêm vẻ kỳ bí và linh thiêng của danh thắng này. Khi chia tay chùa Hương, mỗi du khách đều mang theo vài kỉ vật làm kỷ niệm. Chiếc khăn xà cừ buộc bằng chỉ đỏ quen thuộc, cây gậy trúc đã đi cùng suốt hành trình, chuỗi hạt bồ đề…
Khi lên xe ra về, lòng mọi người bồi hồi, tiếc nuối, hy vọng sớm trở lại trong lễ hội năm sau. Không cần lời nhắc, mọi người cùng quay đầu lại, để khắc sâu hơn trong trái tim bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của Hương Sơn, để yêu thương, tự hào về vùng đất này.