Tế Hanh | |
---|---|
Sinh | 20 tháng 6 năm 1921 làng Đông Yên, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, Liên Bang Đông Dương |
Mất | 16 tháng 7 năm 2009 thủ đô Hà Nội, Việt Nam |
Nghề nghiệp | nhà thơ |
Giai đoạn sáng tác | 1938–1997 |
Tác phẩm nổi bật | Những ngày nghỉ học, Nhớ con sông quê hương, Đi suốt bài ca |
Tế Hanh (1921-2009), tên thật là Trần Tế Hanh, là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam thời kỳ tiền chiến. Sinh ra tại làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi, quê hương chính là nguồn cảm hứng lớn nhất cho ông. Ông xuất hiện vào giai đoạn cuối của phong trào Thơ Mới với những bài thơ đầy nỗi buồn và tình yêu quê hương. Sau năm 1945, ông tiếp tục sáng tác bền bỉ để phục vụ cách mạng và kháng chiến. Ông được biết đến nhiều nhất với những bài thơ thể hiện nỗi nhớ quê hương miền nam và khao khát thống nhất Tổ quốc.
Thông tin tiểu sử
Ông chào đời vào ngày 20 tháng 6 năm 1921 tại làng Đông Yên, phủ Bình Sơn, nay là xã Bình Dương, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Cha của ông, Trần Tất Tố, là một thầy giáo và thầy thuốc. Ông có bốn người anh em, trong đó người em út là nhạc sĩ Trần Thế Bảo.
Khi còn nhỏ, ông học tại trường làng và trường huyện. Vào năm 15 tuổi, ông tiếp tục việc học tại trường Khải Định (còn gọi là Quốc Học Huế).
Với niềm đam mê thơ ca bẩm sinh và được sự hướng dẫn của thi sĩ Huy Cận, Tế Hanh bắt đầu thử sức sáng tác. Năm 1938, khi mới 17 tuổi, ông đã viết bài thơ đầu tay mang tên 'Những ngày nghỉ học'.
Tiếp tục sáng tác, ông đã tập hợp các tác phẩm của mình thành một tập thơ có tên Nghẹn ngào. Tập thơ này đã giành được giải khuyến khích của Tự Lực văn đoàn vào năm 1939.
Năm 1941, Tế Hanh và các tác phẩm của ông như 'Quê hương', 'Lời con đường quê', 'Vu vơ', 'Ao ước' được Hoài Thanh và Hoài Chân giới thiệu trong cuốn Thi nhân Việt Nam (xuất bản năm 1942).
Tháng 8 năm 1945, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Tế Hanh gia nhập Việt Minh, tham gia vào công tác văn hóa và giáo dục tại Huế và Đà Nẵng. Ông còn đảm nhiệm chức vụ Ủy viên giáo dục trong ủy ban lâm thời thành phố Đà Nẵng.
Từ năm 1949 đến 1954, ông đảm nhiệm vai trò trong Ban phụ trách Chi hội Văn nghệ Liên khu V.
Sau khi Hiệp định Genève được ký kết vào năm 1954, ông ra Bắc tập kết và làm việc tại Hội Văn nghệ.
Năm 1957, khi Hội Nhà văn Việt Nam được thành lập, Tế Hanh gia nhập Ban Biên tập của tuần báo Văn và trong nhiều năm, ông còn giữ vai trò Ủy viên Chấp hành và Ban Thường vụ của hội.
Năm 1996, ông vinh dự nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật trong đợt I.
Vào những năm 80, ông gặp phải vấn đề về mắt và dần dần bị mù. Sau đó, ông mắc bệnh liệt giường, thường xuyên mê man. Ông qua đời vào lúc 12 giờ ngày 16 tháng 7 năm 2009 tại Hà Nội, sau nhiều năm chiến đấu với căn bệnh xuất huyết não.
Các tác phẩm nổi bật
- Những ngày nghỉ học (1938)
- Nghẹn ngào (1939), trong đó bài thơ 'Quê hương' được 47 nhà thơ rút sang tập 'Hoa Niên' (1945)
- Hoa niên (1945)
- Tập thơ Tìm lại (1945)
- Hoa mùa thi (1948)
- Nhân dân một lòng (1952)
- Gửi miền Bắc (1955)
- Lòng miền Nam (1956), gồm 20 bài thơ
- Tiếng sóng (1960), 15 bài thơ
- Chuyện em bé cười ra đồng tiền (1960), thơ thiếu nhi
- Thơ và cuộc sống mới (1961), tập tiểu luận và phê bình
- Bài thơ tháng bảy (1962)
- Những tấm bản đồ (1965), thơ thiếu nhi
- Hai nửa yêu thương (1967)
- Khúc ca mới (1967), 44 bài thơ
- Đi suốt bài ca (1970)
- Câu chuyện quê hương (1973)
- Thơ viết cho con (1974), thơ thiếu nhi
- Theo nhịp tháng ngày (1974)
- Giữa những ngày xuân (1976)
- Con đường và dòng sông (1980)
- Tiếng sáo, tiếng đàn, tiếng hát (1983), thơ thiếu nhi
- Bài ca sự sống (1985)
- Tuyển tập Tế Hanh, tập I (1987)
- Thơ Tế Hanh (1989)
- Vườn xưa (1992)
- Giữa anh và em (1992)
- Em chờ anh (1993)
- Tuyển tập Tế Hanh, tập II (1997)
- Nhớ con sông quê hương
Bên cạnh việc sáng tác thơ, Tế Hanh còn dịch nhiều tác phẩm của các thi sĩ nổi tiếng quốc tế và viết tiểu luận phê bình văn học cũng như thơ cho trẻ em.
Giải thưởng đạt được
- Giải thưởng văn học của Tự Lực văn đoàn năm 1939.
- Giải thưởng Phạm Văn Đồng do Hội Văn nghệ Liên khu V trao tặng.
- Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học – Nghệ thuật trong đợt I năm 1996.
Đánh giá chung
Tế Hanh là một trong những thi sĩ nổi bật, cùng thời với các tên tuổi như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận... Ông là một trong ba nhà thơ danh tiếng sinh ra tại Quảng Ngãi trước năm 1945, bên cạnh Nguyễn Vỹ và Bích Khê.
Ý kiến nhận xét
- Nhà văn Nhất Linh:
- 'Tế Hanh mang trong mình tiềm năng trở thành một thi sĩ xuất sắc, với một tâm hồn phong phú và những cảm xúc sâu sắc. Ông sở hữu khả năng nghệ thuật tinh tế và sự khéo léo trong việc chọn lựa từng câu chữ'.
- Nhà phê bình văn học Hoài Thanh và Hoài Chân:
- 'Tế Hanh có một khả năng tinh tế hiếm có, ông đã khắc họa rất sâu sắc những nét đẹp của cảnh vật và cuộc sống quê hương. Đọc thơ ông, người ta cảm nhận được những điều vô hình như hồn làng, cánh buồm căng gió, và những tiếng hát êm dịu của vùng đồng quê. Thơ Tế Hanh dẫn dắt chúng ta vào một thế giới gần gũi và chân thật...'
- Nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn:
- 'Trong thơ Việt Nam thời kỳ trước cách mạng, Tế Hanh không tạo được sự cuốn hút đặc biệt như Hàn Mặc Tử hay Nguyễn Bính, cũng không thống trị thi đàn như Thế Lữ hay Xuân Diệu. Tuy nhiên, ông vẫn có chỗ đứng riêng. Tập thơ 'Nghẹn ngào' của ông đã nhận giải thưởng Tự Lực văn đoàn. Sau năm 1945, ông tiếp tục sáng tác đều đặn, với những tập thơ nhẹ nhàng, dù không bùng nổ nhưng mang một tình cảm chân thành, và luôn có những bài thơ đáng nhớ, khiến người ta nghĩ đến ông ngay sau Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu.'
- Nhà thơ Thanh Thảo:
- 'Ngay từ khi xuất hiện trong phong trào Thơ Mới, thơ của Tế Hanh đã gây ấn tượng mạnh mẽ nhờ vào sự 'mộc mạc, chân thành' và vẻ 'trong trẻo, giản dị như dòng sông''.