Than Uyên
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Than Uyên | |||
Núi rừng xung quanh đồng bằng Than Uyên | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Tây Bắc Bộ | ||
Tỉnh | Lai Châu | ||
Huyện lỵ | Thị trấn Than Uyên | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 11 xã | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Lò Văn Hương | ||
Chủ tịch HĐND | Hoàng Hữu An | ||
Bí thư Huyện ủy | Hoàng Hữu An | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: | |||
| |||
Diện tích | 792,53 km² | ||
Dân số (2018) | |||
Tổng cộng | 70.600 người | ||
Mật độ | 84 người/km² | ||
Dân tộc | Thái, Kinh, Mông, Khơ Mú, Dao | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 110 | ||
Biển số xe | 25-T1 | ||
Website | thanuyen | ||
Than Uyên là một huyện nằm ở phía đông nam tỉnh Lai Châu, Việt Nam.
Địa lý
Vị trí địa lý
Huyện Than Uyên nằm ở phía đông nam tỉnh Lai Châu, có vị trí địa lý:
- Phía đông giáp huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai và huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái
- Phía tây giáp huyện Quỳnh Nhai, phía nam giáp huyện Mường La, tỉnh Sơn La
- Phía bắc giáp huyện Tân Uyên.
Địa hình
Than Uyên là một vùng đất lòng chảo, nằm ở phía tây dãy núi Hoàng Liên Sơn, được hình thành 3 khu vực rõ rệt:
- Khu vực phía Đông là sườn núi phía Tây của dải núi Phan Xi Păng, núi cao địa hình hiểm trở, độ dốc lớn.
- Khu vực phía Tây là đồi núi thấp thuộc dãy Pu San Cáp độ cao từ 600-1.800m.
- Khu vực giữa: Chạy dọc theo Quốc lộ 32 từ Phúc Than đến Khoen On, một thung lũng có cấu tạo là những đồi núi xen lẫn với những dải đồng bằng có độ cao từ 500–650 m so với mặt biển.
Sông suối
Than Uyên thuộc lưu vực sông Nậm Mu (Phụ lưu cấp 1 của sông Đà) có mật độ sông suối từ 1,5 -1,7 km/km², thuộc loại dày, do lượng mưa trong năm phân bố không đều nên mùa mưa quá dư thừa nước gây ra lũ lụt, về mua khô thì thiếu nước, dòng thủy cạn kiệt.
Khí hậu
Khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt:
- Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, lượng mưa tập trung trong tháng 6, tháng 7 hằng năm.
- Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, sông suối cạn kiệt, thường xuất hiện gió khô hanh (Gió Lào).
Lượng mưa trung bình 1.800 - 2.200 mm/năm, nhiệt độ trung bình 22-23oC, ẩm độ không khí trung bình 80%.
Diện tích
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện: 79.252,93 ha.
- Diện tích đất nông nghiệp: 31.890,2 ha.
- Đất phi nông nghiệp: 3.813,3 ha.
- Đất chưa sử dụng: 43.984,0 ha.
Than Uyên có hai loại đất cơ bản như sau:
- Đất Feralít đỏ vàng chiếm khoảng 35% phân bố ở độ cao 900–1200 m.
- Đất Feralít vàng đỏ chiếm khoảng 65% phân bố ở độ cao < 900 m.
Dân cư
Tính đến ngày 31/12/2017, tổng số người toàn huyện là: 66.589 khẩu. Tổng số hộ là 13.838 hộ, trong đó số hộ nghèo: 3.340 hộ
Huyện Than Uyên có 10 dân tộc anh em:
- Thái: 7.273 hộ 40.450 khẩu (73,2%)
- Kinh: 1.987 hộ 7.252 khẩu (13,1%)
- H'Mông: 920 hộ 5.829 khẩu (10,5%)
- Khơ Mú: 226 hộ 1.261 khẩu (2,3%)
- Dao: 59 hộ 321 khẩu (0,6%)
- Dân tộc kháng 51 hộ 161 khẩu (0,3%), bao gồm: Tày, Lào, Cao Lan, Nùng.
Hành chính
Huyện Than Uyên có 12 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Than Uyên (huyện lỵ) và 11 xã: Hua Nà, Khoen On, Mường Cang, Mường Kim, Mường Mít, Mường Than, Pha Mu, Phúc Than, Ta Gia, Tà Hừa, Tà Mung.
Lịch sử
Than Uyên là vùng đất phát triển lâu dài từ nền văn hóa Hòa Bình đến văn hóa Đông Sơn. Sang thời Lý, Than Uyên thuộc mường Tiến Châu Đăng; đời hậu Lê thuộc châu Chiêu Tấn, phủ An Tây trong thừa tuyên Hưng Hoá; đời Tự Đức triều Nguyễn, Than Uyên là lỵ sở châu Chiêu Tấn.
Ngày 28/6/1909 thực dân Pháp đặt ra châu Than Uyên thuộc tỉnh Lai Châu. Ngày 20/2/1920 châu Than Uyên lại sáp nhập vào tỉnh Yên Bái.
Sau khi hòa bình được thiết lập lại vào năm 1955, huyện Than Uyên thuộc vùng khu tự trị của người Thái và Mèo.
Vào cuối năm 1962, tỉnh Nghĩa Lộ được thành lập và Than Uyên trở thành một huyện của tỉnh này, bao gồm 16 xã như Hố Mít, Hua Nà, Khoen On, Mường Cang, Mường Khoa, Mường Kim, Mường Mít, Mường Than, Nậm Cần, Nậm Sỏ, Pắc Ta, Pha Mu, Ta Gia, Tà Hừa, Tà Mít và Thân Thuộc.
Vào ngày 8 tháng 3 năm 1967, thị trấn nông trường Than Uyên được thành lập trực thuộc huyện Than Uyên.
Vào ngày 3 tháng 1 năm 1976, Than Uyên trở thành một huyện của tỉnh Hoàng Liên Sơn (sau khi sáp nhập 3 tỉnh Lào Cai – Yên Bái – Nghĩa Lộ thành Hoàng Liên Sơn). Từ tháng 10/1991, huyện này thuộc tỉnh Lào Cai.
Vào ngày 25 tháng 2 năm 1978, hai xã Hua Nà và Mường Cang đã hợp nhất thành xã Nà Cang.
Vào ngày 15 tháng 11 năm 1991, thị trấn Than Uyên được thành lập từ đất của 2 xã Nà Cang và Mường Than, trở thành thị trấn hành chính của huyện.
Vào cuối năm 2002, huyện Than Uyên bao gồm thị trấn Than Uyên, thị trấn nông trường Than Uyên và 15 xã như Hố Mít, Khoen On, Mường Khoa, Mường Kim, Mường Mít, Mường Than, Nà Cang, Nậm Cần, Nậm Sỏ, Pắc Ta, Pha Mu, Ta Gia, Tà Hừa, Tà Mít, Thân Thuộc.
Vào ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội thông qua Nghị quyết chia tỉnh Lai Châu thành tỉnh Lai Châu mới và tỉnh Điện Biên, cùng với việc di dời huyện Than Uyên từ tỉnh Lào Cai sang tỉnh Lai Châu mới.
Vào ngày 27 tháng 12 năm 2006, huyện Than Uyên thành lập ba xã mới là Tà Mung, Phúc Than và Phúc Khoa. Tính đến thời điểm này, huyện có diện tích tự nhiên là 169.550 ha và dân số là 87.249 người.
Vào ngày 8 tháng 4 năm 2008, huyện Than Uyên tiếp tục thành lập ba xã mới là Trung Đồng, Hua Nà, Mường Cang và thị trấn Tân Uyên. Diện tích tự nhiên của huyện là 170.000 ha và dân số là 95.559 người.
Từ đó, huyện Than Uyên hiện có hai thị trấn là Than Uyên (huyện lị) và Tân Uyên, cùng với 20 xã như Pha Mu, Mường Mít, Phúc Than, Mường Than, Mường Cang, Hua Nà, Tà Hừa, Ta Gia, Tà Mung, Mường Kim, Khoen On, Mường Khoa, Phúc Khoa, Nậm Sỏ, Nậm Cần, Thân Thuộc, Trung Đồng, Hố Mít, Pắc Ta, Tà Mít.
Vào ngày 30 tháng 10 năm 2008, một phần diện tích và dân số của huyện Than Uyên đã được chuyển sang để thành lập huyện Tân Uyên. Huyện Than Uyên còn lại với diện tích tự nhiên là 79.680,50 ha và dân số là 53.338 người.
Vào ngày 14 tháng 10 năm 2011, đã điều chỉnh địa giới hành chính của các xã Pha Mu, Mường Mít, Tà Hừa và Mường Cang. Huyện Than Uyên vào thời điểm này có diện tích tự nhiên là 79.252,93 ha và dân số là 57.837 người.
Tài nguyên
- Sông Nậm Mu chảy qua huyện với chiều dài 160 km, là nguồn năng lượng lớn cho việc phát triển thủy điện. Năm 2005, đã khởi công xây dựng hai công trình thủy điện lớn trên sông là Bản Chát (xã Mường Kim) với công suất 220 MW và Huội Quảng (xã Khoen On) với công suất 520 MW.
Trên các nhánh sông, đã xây dựng nhiều công trình thủy điện như Nậm Mở 3 (công suất 10 MW, xã Khoen On), Nậm Mở 2,... Khi xây dựng thủy điện Huội Quảng và thủy điện Bản Chát, nước dâng lên đã tạo ra những hòn đảo sơn phong cảnh đẹp, thu hút du khách tới thăm quan và tìm kiếm hoa Đỗ Quyên thơm ngát, cùng thưởng thức món cá cơm nướng ống nứa và đánh bắt thủy sản địa phương.
- Diện tích đất nông nghiệp và đồng cỏ rộng khoảng 40.000 ha, đặc biệt là cánh đồng Mường Than, lớn nhất thứ ba tại vùng Tây Bắc (nhất là Thanh, nhì Lò, ba Than, bốn Tấc) có tiềm năng phát triển nông nghiệp, đặc biệt là trồng trọt cây lương thực, cây công nghiệp chè và chăn nuôi gia súc, trong đó sản xuất chè là mũi nhọn kinh tế của Than Uyên.
Than Uyên còn có nhiều tài nguyên văn hóa phong phú phản ánh đặc trưng văn hoá địa phương.
- Tại xã Phúc Than, huyện Than Uyên, là nơi sinh ra gió, gió thổi theo hướng Bắc - Nam. Đây là điều kiện lý tưởng để xây dựng nhà máy điện sử dụng năng lượng sạch từ gió.
Di tích
- Di tích đèo Khau Co là nơi các chiến sĩ Mường Lay, Mường Khoa dũng cảm chặn đứng cuộc tấn công của quân đội Pháp vào ngày 20/11/1886, bắt đầu phong trào kháng chiến anh dũng và hy sinh của nhân dân Than Uyên, thể hiện tình yêu nước sâu sắc và ý chí quyết liệt chống lại thực thể xâm lược ngoại bang. Nơi đây từng là căn cứ của Trung đoàn 2 Mở đường 279 trong cuộc chiến tranh biên giới 1979, nơi vẫn còn những dấu tích của chiến dịch Mở đường (những đoạn đường mòn dọc vách núi). Từ đây có thể nhìn thấy rõ cánh đồng Mường Than, là cánh đồng lớn thứ ba của vùng Tây Bắc.
- Bản Nà Khoảng (xã Mường Kim) - một trong những điểm căn cứ của phong trào kháng chiến chống Pháp, góp phần vào việc giải phóng Than Uyên vào ngày 15/10/1952... Hang Che Bó (xã Mường Than, nay là xã Phúc Than - đã bị sập để khai thác đá) - một hệ thống hang động sâu trong lòng núi, dài gần 7,5 km không chỉ có suối chảy trong vắt thú vị, mùa đông ấm áp, mùa hè mát mẻ với nhiều loài cá cảnh vui chơi tung tăng và nhiều nhũ đá, tượng bụt kỳ ảo mang giá trị thẩm mỹ.
- Bản Lướt, xã Mường Kim, là một địa danh lịch sử của huyện, nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên tiền thân của Đảng bộ tỉnh Lai Châu ngày nay.
- Quần thể thắng cảnh Ta Gia có nhiều hang động đẹp, dãy núi đá vôi bạt ngàn với thảm thực vật phong phú, dòng sông Nậm Mu trong xanh và các hang động núi rừng tạo nên bức tranh tuyệt đẹp 'Sơn thủy hữu tình', cùng với bản làng người Thái cổ truyền với nhà sàn độc đáo.