Tháng là đơn vị thời gian bằng khoảng 1/12 năm hoặc 1/3 mùa, được sử dụng trong lịch, có độ dài gần bằng chu kỳ tự nhiên liên quan đến chuyển động của Mặt Trăng. Khái niệm này bắt nguồn từ chu kỳ tuần trăng; do đó, các tháng âm lịch còn được gọi là tháng giao hội và kéo dài khoảng 120 ngày. Những thẻ gỗ khắc dấu đã được khai quật cho thấy loài người đã biết đếm ngày dựa trên tuần trăng từ thời kỳ đồ đá cũ. Ngày nay, các tháng giao hội vẫn là cơ sở của nhiều loại lịch và dùng để chia năm.
Vì tháng được lấy từ chu kỳ của Mặt Trăng, nên Nguyệt (月) có nghĩa gốc là 'Mặt Trăng' và có nghĩa chuyển là 'Tháng'. Ví dụ, Nguyệt báo hay Nguyệt san là các ấn phẩm phát hành hàng tháng.
Các loại tháng dựa trên Mặt Trăng
Tháng thiên văn
Chu kỳ quỹ đạo của Mặt Trăng khi so sánh với các ngôi sao trên thiên cầu được gọi là tháng thiên văn hay tháng hằng tinh. Đây là khoảng thời gian để Mặt Trăng trở về vị trí ban đầu so với các ngôi sao, được tính là khoảng 27,321661 ngày (27 ngày 7 giờ 43 phút 11,5 giây). Loại tháng này được ghi nhận trong các nền văn hóa ở Trung Đông, Ấn Độ và Trung Quốc, nơi người ta chia bầu trời thành 27 hoặc 28 cung, mỗi cung được nhận diện bởi các ngôi sao sáng nhất trong đó.
Tháng chí tuyến
Một tập quán khác là theo dõi vị trí của các thiên thể so với điểm xuân phân. Do sự tiến động, điểm này di chuyển chậm dọc theo đường hoàng đạo. Vì vậy, Mặt Trăng cần ít thời gian hơn để trở lại điểm kinh độ hoàng đạo 0 độ so với điểm cố định theo các định tinh. Tháng này kéo dài 27,321582 ngày (27 ngày 7 giờ 43 phút 4,7 giây). Chu kỳ này được gọi là tháng chí tuyến hay tháng phân chí, tương tự như năm chí tuyến của Mặt Trời.
Tháng điểm cận địa
Giống như các quỹ đạo thiên thể khác, quỹ đạo của Mặt Trăng có hình elip và không cố định. Các củng điểm như điểm cận địa và điểm viễn địa tạo thành một chu trình đầy đủ (tiến động Mặt Trăng) trong khoảng 9 năm. Do đó, Mặt Trăng cần nhiều thời gian hơn để trở về cùng một củng điểm vì củng điểm đó di chuyển theo vòng xoay của Mặt Trăng. Chu kỳ dài hơn này được gọi là tháng điểm cận địa và có độ dài trung bình khoảng 27,554551 ngày (27 ngày 13 giờ 18 phút 33,2 giây). Đường kính biểu kiến của Mặt Trăng dao động theo chu kỳ này, ảnh hưởng đến các hiện tượng như nhật thực và nguyệt thực. Đường kính biểu kiến của Mặt Trăng trong chu kỳ trăng tròn liên quan đến tháng giao hội và tháng điểm cận địa theo công thức: = 411,78443 ngày (với AM là tháng điểm cận địa và SM là tháng giao hội), và đây cũng là chu kỳ mà các củng điểm hướng về phía Mặt Trời một lần nữa.
Tháng giao điểm thăng
Quỹ đạo của Mặt Trăng nghiêng so với mặt phẳng hoàng đạo với góc nghiêng khoảng 5,145 độ. Giao điểm của hai mặt phẳng này xác định hai điểm trên thiên cầu: giao điểm thăng (La Hầu), khi bạch đạo (đường di chuyển của Mặt Trăng) cắt qua hoàng đạo để Mặt Trăng đi vào bán cầu bắc, và giao điểm giáng (Kế Đô), khi bạch đạo cắt qua hoàng đạo để Mặt Trăng di chuyển vào bán cầu nam. Tháng giao điểm thăng là khoảng thời gian trung bình giữa hai lần Mặt Trăng vượt qua giao điểm thăng (xem thêm Giao điểm Mặt Trăng, La Hầu và Kế Đô). Do sự tác động của lực hấp dẫn Mặt Trời, quỹ đạo của Mặt Trăng từ từ xoay về phía tây, kéo theo các giao điểm cũng xoay quanh Trái Đất. Kết quả là thời gian để Mặt Trăng trở lại giao điểm thăng ngắn hơn so với tháng thiên văn, kéo dài khoảng 27,212220 ngày (27 ngày 5 giờ 5 phút 35,8 giây). Mặt phẳng quỹ đạo của Mặt Trăng cũng tiến động theo chu kỳ khoảng 18,5996 năm.
Do quỹ đạo Mặt Trăng nghiêng so với hoàng đạo, Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng chỉ có thể thẳng hàng khi Mặt Trăng ở một trong hai giao điểm thăng hoặc giáng. Khi xảy ra hiện tượng này, nhật thực hoặc nguyệt thực mới có thể xuất hiện. La Hầu và Kế Đô (Rahu và Ketu trong thần thoại Hindu, được cho là sống tại các giao điểm và nuốt Mặt Trăng hay Mặt Trời khi có hiện tượng thực) có hình tượng là những con rồng hoặc rắn, vì vậy trong một số ngôn ngữ, như tiếng Anh, tháng giao điểm thăng được gọi là 'draconic month', nghĩa là tháng của con rồng, liên hệ với vị thần rồng huyền thoại.
Tháng giao hội
Là chu kỳ trung bình của chuyển động Mặt Trăng so với Mặt Trời. Tháng giao hội liên quan đến các pha của Mặt Trăng (các tuần trăng), vì cách nhìn nhận về Mặt Trăng thay đổi dựa trên vị trí của nó so với Mặt Trời từ Trái Đất. Khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất, Trái Đất cũng di chuyển quanh Mặt Trời. Do đó, sau khi Mặt Trăng hoàn thành một chu kỳ so với các định tinh (tháng thiên văn), nó vẫn cần thêm thời gian để đạt vị trí mới sao cho khi quan sát từ Trái Đất, nó trùng với vị trí ban đầu so với Mặt Trời. Chu kỳ này dài hơn và được gọi là tháng giao hội (tiếng Hy Lạp: σὺν ὁδῴ, sun hodō, nghĩa là 'trên con đường [của Mặt Trời]') hay tháng sóc vọng. Do nhiễu loạn trong quỹ đạo của Trái Đất và Mặt Trăng, khoảng thời gian thực tế giữa các chu kỳ tuần trăng có thể dao động từ khoảng 29,27 đến 29,83 ngày. Độ dài trung bình dài hạn là khoảng 29,530589 ngày (29 ngày 12 giờ 44 phút 2,9 giây). Tháng giao hội được sử dụng trong chu kỳ Meton.
Chiều dài các tháng theo chu kỳ Mặt Trăng
Dưới đây là bảng thể hiện độ dài trung bình của các loại tháng Mặt Trăng trong thiên văn học khác nhau. Các giá trị này không phải là cố định, nên cũng có kèm theo sự xấp xỉ tuyến tính của các biến động theo chu kỳ:
Dữ liệu áp dụng cho kỷ nguyên J2000.0 (ngày 1 tháng 1 năm 2000 lúc 12:00 TT):
Tháng điểm cận địa | 27,554549878 - 0,000000010390 × y ngày |
Tháng thiên văn | 27,321661547 + 0,000000001857 × y ngày |
Tháng chí tuyến | 27,321582241 + 0,000000001506 × y ngày |
Tháng giao điểm thăng | 27,212220817 + 0,000000003833 × y ngày |
Tháng giao hội | 29,530588853 + 0,000000002162 × y ngày |
Chú thích: Thời gian được biểu diễn theo thời gian thiên văn (cụ thể hơn là thời gian Trái Đất), với một ngày tương đương 86.400 giây trong hệ SI. y là số năm kể từ đầu kỷ nguyên (2000), tính theo năm Julius gồm 365,25 ngày. Lưu ý rằng trong các tính toán lịch pháp, có thể sử dụng ngày đo theo thang thời gian vũ trụ, theo sự chuyển động không thể dự đoán chính xác tuyệt đối của Trái Đất và tích lũy thành sai số so với thời gian thiên văn, gọi là ΔT.
Ảnh hưởng đến lịch pháp
- Để tìm hiểu thêm về chủ đề này, hãy tham khảo âm lịch và âm dương lịch.
Ở mức cơ bản, âm lịch thường dựa trên độ dài gần đúng của 2 chu kỳ tuần trăng kéo dài 59 ngày: một tháng đầy đủ có 30 ngày và một tháng thiếu có 29 ngày. Tuy nhiên, phương pháp này có độ chính xác thấp và cần được điều chỉnh bằng cách sử dụng các chu kỳ dài hơn hoặc bổ sung ngày nhuận.
Hơn nữa, các tháng giao hội không dễ dàng khớp với năm, gây khó khăn trong việc xây dựng các âm dương lịch chính xác và có quy tắc. Một giải pháp phổ biến là chu kỳ Meton, dựa trên 235 chu kỳ tuần trăng kéo dài gần 19 năm chí tuyến (với 6.940 ngày bổ sung). Tuy nhiên, lịch Meton (như lịch Do Thái) sẽ bị lệch khoảng 1 ngày so với các mùa sau mỗi 200 năm.
Những khó khăn trong việc tạo ra âm lịch chính xác có thể giải thích tại sao dương lịch, với các tháng không còn liên quan đến các pha của Mặt Trăng và chỉ dựa vào chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời (hoặc chuyển động của Mặt Trời trên bầu trời khi quan sát từ Trái Đất), đã thay thế âm lịch cho mục đích dân sự tại hầu hết các quốc gia hiện nay.
Tháng trong các loại lịch khác nhau
Khởi đầu của tháng âm lịch
Các loại lịch như lịch Hellenic, âm dương lịch Do Thái và âm lịch Hồi giáo bắt đầu một tháng bằng việc quan sát mảnh trăng lưỡi liềm mới xuất hiện của trăng mới.
Tuy nhiên, chuyển động của Mặt Trăng trên quỹ đạo của nó rất phức tạp và chu kỳ của nó không phải là cố định. Thời điểm và ngày thực tế của quan sát phụ thuộc vào kinh độ, vĩ độ, điều kiện khí quyển (như mây, mưa) và khả năng quan sát của người xem. Vì vậy, việc dự đoán chính xác sự bắt đầu và độ dài của các tháng trong các loại lịch này là rất khó khăn.
Mặc dù một số người, như những người theo Do Thái giáo Karaite, vẫn dựa vào quan sát thực tế của mặt trăng, phần lớn mọi người đã chuyển sang sử dụng dương lịch Gregory.
Lịch Julius và Gregory
Lịch Gregory, giống như lịch Julius trước đó, bao gồm 12 tháng:
- Tháng 1, 31 ngày
- Tháng 2, 28 ngày trong năm thường và 29 ngày trong năm nhuận
- Tháng 3, 31 ngày
- Tháng 4, 30 ngày
- Tháng 5, 31 ngày
- Tháng 6, 30 ngày
- Tháng 7, 31 ngày
- Tháng 8, 31 ngày
- Tháng 9, 30 ngày
- Tháng 10, 31 ngày
- Tháng 11, 30 ngày
- Tháng 12, 31 ngày
Độ dài trung bình của một tháng trong lịch Gregory là 30,4167 ngày, tương đương khoảng 4,345 tuần trong năm thường và 30,5 ngày, khoảng 4,357 tuần trong năm nhuận. Trung bình tổng thể là 30,436875 ngày cho mỗi tháng (365,2425 ÷ 12).
Các tháng đã tồn tại trong lịch La Mã cổ đại bao gồm:
- Mercedonius, tháng bổ sung đôi khi được thêm vào sau tháng 2 để điều chỉnh lịch.
- Quintilis, đổi tên thành July (tháng 7) để vinh danh Julius Caesar.
- Sextilis, đổi tên thành August (tháng 8) để vinh danh Augustus.
Các khớp ngón tay trên cả hai bàn tay (ngoại trừ ngón trỏ) và các khoảng trũng giữa chúng có thể giúp bạn nhớ độ dài của các tháng. Hãy coi tháng 1 là khớp ngón út đầu tiên và đặt các tháng lần lượt vào các khớp ngón tay và khoảng trũng. Khi đạt đến khớp ngón trỏ của bàn tay, chuyển sang bàn tay kia để tiếp tục. Các tháng ở các khớp ngón tay sẽ có 31 ngày (tháng 1, 3, 5, 7, 8, 10, 12), còn các tháng ở khoảng trũng có 30 ngày (tháng 4, 6, 9, 11) hoặc 28/29 ngày (tháng 2). Phương pháp ghi nhớ này đã được dạy ở nhiều trường tiểu học trong nhiều thập kỷ.
Kalendae, Nonae, và Idūs
Trong lịch La Mã, có ba khái niệm quan trọng là kalendae, nonae và idūs. Idūs là ngày thứ mười ba trong tám tháng, ngoại trừ các tháng 3, 5, 7 và 10, khi nó rơi vào ngày thứ mười lăm. Idūs thường được cho là ngày trăng tròn. Nonae là 8 ngày trước idūs, tức là vào ngày thứ năm hoặc thứ bảy, được cho là ngày trăng bán nguyệt kể từ đầu tháng. Kalendae luôn là ngày đầu tiên của tháng, và được coi là ngày đầu tiên khi có trăng mới.
Lịch Do Thái
Lịch Do Thái có tổng cộng 12 hoặc 13 tháng tùy theo năm.
- Nisan, 30 ngày (ניסן)
- Iyyar, 29 ngày (אייר)
- Sivan, 30 ngày (סיון)
- Tammuz, 29 ngày (תמוז)
- Av, 30 ngày (אב)
- Elul, 29 ngày (אלול)
- Tishri, 30 ngày (תשרי)
- Heshvan, 29 hoặc 30 ngày (חשון)
- Kislev, 29 hoặc 30 ngày (כסלו)
- Tevet, 29 ngày (טבת)
- Shevat, 30 ngày (שבט)
- Adar 1, 30 ngày, tháng nhuận (אדר א)
- Adar 2, 29 ngày (אדר ב)
Adar 1 chỉ xuất hiện 7 lần trong 19 năm, còn trong các năm thường, tháng Adar 2 đơn giản được gọi là Adar.
Lịch Cộng hòa Pháp
Lịch này được đề xuất trong thời kỳ Cách mạng Pháp và được chính quyền Cộng hòa Pháp sử dụng trong khoảng 12 năm từ cuối năm 1793. Nó bao gồm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, được phân chia thành 3 tuần, mỗi tuần 10 ngày gọi là décades. Có thêm 5 hoặc 6 ngày để đồng bộ với năm chí tuyến, được thêm vào cuối mỗi năm. Một chu kỳ bốn năm kết thúc bằng ngày nhuận gọi là Franciade và bắt đầu từ điểm thu phân.
- Mùa thu:
- Vendémiaire
- Brumaire
- Frimaire
- Mùa đông:
- Nivôse
- Pluviôse
- Ventôse
- Mùa xuân:
- Germinal
- Floréal
- Prairial
- Mùa hè:
- Messidor
- Thermidor
- Fructidor
Lịch Iran/Ba Tư
Lịch Iran/Ba Tư, hiện đang được áp dụng tại Iran và Afghanistan, cũng bao gồm 12 tháng. Các tên tháng bằng tiếng Ba Tư được ghi trong ngoặc.
- Farvardin (فروردین), 31 ngày
- Ordibehesht (اردیبهشت), 31 ngày
- Khordad (خرداد), 31 ngày
- Tir (تیر), 31 ngày
- Mordad (مرداد), 31 ngày
- Shahrivar (شهریور), 31 ngày
- Mehr (مهر), 30 ngày
- Aban (آبان), 30 ngày
- Azar (آذر), 30 ngày
- Dey (دی), 30 ngày
- Bahman (بهمن), 30 ngày
- Esfand (اسفند), 29 hoặc 30 ngày trong năm nhuận
Lịch Hồi giáo
Lịch Hồi giáo cũng chia thành 12 tháng, với các tên gọi như sau:
- Muharram ul Haram (hay gọi tắt là Muharram) محرّم
- Safar صفر
- Rabi`-ul-Awwal (Rabi' I) ربيع الأول
- Rabi`-ul-Akhir (hoặc Rabi` al-Thaany) (Rabi' II) ربيع الآخر أو ربيع الثاني
- Jumaada-ul-Awwal (Jumaada I) جمادى الأول
- Jumaada-ul-Akhir (hoặc Jumaada al-Thaany) (Jumaada II) جمادى الآخر أو جمادى الثاني
- Rajab رجب
- Sha'aban شعبان
- Ramadhan رمضان
- Shawwal شوّال
- Dhul Qadah (hoặc Thou al-Qi`dah) ذو القعدة
- Dhul Hijja (hoặc Thou al-Hijjah) ذو الحجة
Lịch Hindu
Lịch Hindu sử dụng nhiều hệ thống tên gọi khác nhau cho các tháng. Dưới đây là danh sách các tháng trong âm lịch Hindu:
- Chaitra
- Vaishaakha
- Jyaishtha
- Aashaadha
- Shraavana
- Bhaadrapada
- Aashvayuja
- Kaartika
- Maargashiirsha
- Pausha
- Maagha
- Phaalguna
Những tên gọi này cũng được sử dụng trong lịch truyền thống của Ấn Độ, và đã được định nghĩa lại cho các tháng.
Các tháng trong dương lịch Hindu chỉ là tên gọi của các cung hoàng đạo mà Mặt Trời lần lượt di chuyển qua.
- Mesha
- Vrishabha
- Mithuna
- Kataka
- Simha
- Kanyaa
- Tulaa
- Vrishcika
- Dhanus
- Makara
- Kumbha
- Miina
Lịch Tamil
- Chitirai
- Vaikasi
- Aani
- Aadi
- Aavani
- Purratasi
- Aiypasi
- Kaarthigai
- Maargazhi
- Thai
- Maasi
- Panguni
Lịch Sinhala
- Duruthu
- Nawam
- Madin
- Bak (Năm mới Sinhala và Hindu)
- Vesak
- Poson
- Asela
- Nikini
- Binara
- Vap
- Iil
- Unduwap
Lịch cổ Iceland/Bắc Âu cổ
Lịch cổ Iceland không còn được sử dụng chính thức, nhưng một số lễ hội ở Iceland vẫn dựa theo lịch này. Lịch có 12 tháng, được chia thành hai nhóm: 6 tháng mùa đông và 6 tháng mùa hè. Đặc điểm nổi bật của lịch này là các tháng luôn bắt đầu vào cùng một ngày trong tuần, không phải cùng một ngày cụ thể trên lịch. Ví dụ, Þorri luôn bắt đầu vào ngày thứ sáu, có thể từ 19 đến 25 tháng 1 (theo lịch Julius: từ 9 đến 15 tháng 1), còn Góa bắt đầu vào ngày chủ nhật, từ 18 đến 24 tháng 2 (theo lịch Julius: từ 8 đến 14 tháng 2).
- Skammdegi ('Ngày ngắn')
- Gormánuður (từ giữa tháng 10 đến giữa tháng 11, gọi là 'tháng giết mổ' hoặc 'tháng Gór')
- Ýlir (từ giữa tháng 11 đến giữa tháng 12, gọi là 'tháng Yule')
- Mörsugur (từ giữa tháng 12 đến giữa tháng 1, gọi là 'tháng mút chất béo')
- Þorri (từ giữa tháng 1 đến giữa tháng 2, gọi là 'tháng tuyết đóng băng')
- Góa (từ giữa tháng 2 đến giữa tháng 3, gọi là 'tháng Góa, xem Nór')
- Einmánuður (từ giữa tháng 3 đến giữa tháng 4, gọi là 'tháng cô độc' hoặc 'tháng đơn lẻ')
- Náttleysi ('Ngày không đêm')
- Harpa (từ giữa tháng 4 đến giữa tháng 5, tên của một nữ thần bị lãng quên, ngày đầu tiên của Harpa được kỷ niệm là Sumardagurinn fyrsti - ngày đầu tiên của mùa hè)
- Skerpla (từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 6, tên của một nữ thần bị lãng quên khác)
- Sólmánuður (từ giữa tháng 6 đến giữa tháng 7, gọi là 'tháng mặt trời')
- Heyannir (từ giữa tháng 7 đến giữa tháng 8, gọi là 'tháng cỏ khô')
- Tvímánuður (từ giữa tháng 8 đến giữa tháng 9, gọi là 'tháng thứ hai')
- Haustmánuður (từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 10, gọi là 'tháng mùa thu')
Lịch cổ Hungary
Người Hungary cổ sử dụng một lịch 12 tháng với ảnh hưởng từ các yếu tố hoàng đạo. Cuối cùng, lịch này được đồng bộ hóa với các tháng trong lịch Gregory như sau:
- Boldogasszony hava (tháng 1, ‘tháng của người phụ nữ hạnh phúc/thiêng liêng’)
- Böjtelő hava (tháng 2, ‘tháng ăn chay sớm’ hoặc ‘tháng trước mùa chay’)
- Böjtmás hava (tháng 3, ‘tháng thứ hai của mùa chay’)
- Szent György hava (tháng 4, ‘tháng của thánh George’)
- Pünkösd hava (tháng 5, ‘tháng của lễ hội mùa hè’)
- Szent Iván hava (tháng 6, ‘tháng của thánh Ivan’)
- Szent Jakab hava (tháng 7, ‘tháng của thánh James’)
- Kisasszony hava (tháng 8, ‘tháng của người phụ nữ trẻ [Đức Mẹ đồng trinh]’)
- Szent Mihály hava (tháng 9, ‘tháng của thánh Michael’)
- Mindszent hava (tháng 10, ‘tháng của các thánh’)
- Szent András hava (tháng 11, ‘tháng của thánh Andrew’)
- Karácsony hava (tháng 12, ‘tháng của lễ Giáng sinh’)
Lịch cổ Ai Cập
Lịch dân sự của người Ai Cập cổ đại có 365 ngày trong năm, chia thành 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, cộng thêm 5 ngày lễ vào cuối năm. Các tháng được chia thành 3 'tuần', mỗi tuần 10 ngày. Do năm của lịch Ai Cập cổ ngắn hơn khoảng một phần tư ngày so với năm theo Mặt Trời, nên lịch này thường được gọi là Annus Vagus hay 'Năm lang thang'.
- Thout
- Paopi
- Hathor
- Koiak
- Tooba
- Emshir
- Paremhat
- Paremoude
- Pashons
- Paoni
- Epip
- Mesori
Lịch Nisga'a
Lịch Nisga'a đồng bộ với lịch Gregory, với mỗi tháng tượng trưng cho một hoạt động thu hoạch mùa màng đặc trưng của tháng đó.
- K'aliiyee = Quay trở về phương Bắc - đánh dấu sự trở lại của Mặt Trời về vị trí quen thuộc trên bầu trời.
- Buxwlaks = Lá kim rụng - Tháng 2 thường là thời điểm nhiều gió trong thung lũng sông Nass.
- Xsaak = Ăn cá ốtme - Thaleichthys pacificus được thu hoạch trong thời gian này.
- Mmaal = Canoe - Sông đã tan băng, các canoe lại được sử dụng.
- Yansa'alt = Trổ lá - Thời tiết ấm áp bắt đầu và lá cây bắt đầu mọc.
- Miso'o = Cá hồi đỏ - Mùa ngược dòng của cá hồi đỏ chủ yếu bắt đầu trong tháng này.
- Maa'y = Quả mọng - Mùa thu hoạch quả mọng.
- Wii Hoon = Đại cá hồi - Nói về sự dồi dào của cá hồi theo bầy đàn.
- Genuugwwikw = Dấu vết của macmot - Macmot, chồn ecmin và các loài tương tự được săn bắn.
- Xlaaxw = Ăn cá hồi - Ăn cá hồi chủ yếu trong thời gian này của năm.
- Gwilatkw = Che phủ - Đất bị phủ tuyết.
- Luut'aa = Ngồi một chỗ - Mặt Trời “ngồi” yên tại một vị trí trong một khoảng thời gian.
Lịch Ả Rập
Tháng Gregory | Tháng Ả Rập | ||
---|---|---|---|
Tháng 1 | يناير | كانون الثاني | Kanoon Al-Thani |
Tháng 2 | فبراير | شباط | Shbaat |
Tháng 3 | مارس | اذار | Athar |
Tháng 4 | ابريل | نيسان | Nissan |
Tháng 5 | مايو | أيّار | Ayyar |
Tháng 6 | يونيو | حزيران | Hzeiran |
Tháng 7 | يوليو | تمّوز | Tammuz |
Tháng 8 | أغسطس | اَب | Aab |
Tháng 9 | سبتمبر | أيلول | Aylool |
Tháng 10 | أكتوبر | تشرين الأول | Tishreen Al-Awwal |
Tháng 11 | نوفمبر | تشرين الثاني | Tishreen Al-Thani |
Tháng 12 | ديسمبر | كانون الأول | Kanoon Al-Awwal |